THỬ TÌM HIỂU THẾ NÀO LÀ MỘT BÀI THƠ HAY - Xuân Vũ Trần Ðình Ngọc
THỬ TÌM HIỂU
THẾ NÀO LÀ MỘT BÀI THƠ HAY
1. Thử Tìm Hiểu Thế Nào Là Một Bài
Thơ Hay
Người ta đã bàn luận nhiều về đề tài:”Thế nào là
một bài Thơ hay?”. Người thích bài này, kẻ ưa bài kia, thật khó mà định nghĩa
thế nào là một bài Thơ hay, nhưng hầu như tất cả mọi người đều đồng ý Thơ là
tuyệt đỉnh của Văn chương, Thơ ít chữ nhưng nói nhiều hơn văn xuôi và vì vậy
không phải ai cũng làm được một bài thơ hay, dù có nhiều kẻ suốt đời nặng lòng
với Thơ.
Người viết bài này hoan nghênh tất cả các bài Thơ
do nhiều tác giả khổ công sáng tác, chỉ không hoan nghênh những bài Thơ dùng từ
rất kêu nhưng xét giá trị từng câu, toàn bài thấy vô nghĩa.
Vâng, nó vô nghĩa! Có nghĩa là người đọc không hiểu
tác giả bài Thơ muốn nói lên cái gì, ám chỉ cái gì, hoặc gởi gấm cái gì trong
những hàng chữ kia. Có thể những ông, bà tác giả đó nguỵ biện rằng người đọc
không đủ trình độ hiểu Thơ của họ. Nói như thế với một em bé trình độ tiểu học
thì có thể chứ với những người đã có trình độ Ðại học VN hoặc đã có làm Thơ thì
đúng là nguỵ biện và quá cao ngạo, kiêu căng.
Ðể tôi kể bạn nghe một giai thoại về Thơ. Có một
ông nhà thơ ở miền Nam trước 1975, sau đó sang hải ngoại, làm được một số bài
thơ và được bè bạn cũng có, tự ông ta cũng có, dùng ống đu đủ thổi lên như hàng
Thi vương, Thi bá, độc nhất vô nhị. Có một người quen ông ta, một bữa lấy 4 câu
thơ của ông ta ở mấy chỗ khác nhau, cho một cái tựa và đặt liền vào nhau như
một bài thơ. Người này , nhân lúc trà dư tửu hậu đem ra , nói là thơ mới làm,
nhờ ông ta nhuận sắc dùm. Ông ta đọc xong bài thơ, hét toáng lên rằng:”Thơ gì
vô nghĩa thế này ? Tao không biết mày định nói cái gì ? Vứt thùng rác cho rồi
!” Người bạn lúc đó mới ôn tồn nói:”Thưa thi hào, chính là thơ của đại gia đấy
!”Nhà thơ vẫn không tin và người bạn phải lấy cuốn Thơ của ông ta xuất bản ra
chỉ vào những câu ông đã trích. “Ðại thi hào” ngồi ngẩn tò te ra, mắc cở . Vậy
mà lâu nay có ai nói cho ông ta biết đâu hoặc có nói, ông ta cũng không chịu
nhìn nhận một sự thực.
Về định nghĩa thế nào là một bài thơ hay. Nếu trả
lời cho đầy đủ kèm theo những dẫn chứng thì có thể phải cả cuốn sách mới đủ.
Nhưng tôi chỉ sơ lược mấy điểm chính để các bạn chưa từng làm Thơ hoặc có ý
định sẽ vào làng Thơ, nắm được thế nào là một bài thơ hoặc câu thơ hay.
LỜI HAY, Ý ÐẸP, TRUYỀN CẢM
Lời thơ trong sáng, tự nhiên, không cố ý gọt dũa,
hoặc có gọt dũa, nhưng người đọc không thấy, ta gọi tắt là lời hay.
Ý thơ hàm súc, dồi dào, gọi tắt là ý đẹp.
Ðọc lên thấy xúc động, nao nao, xao xuyến trong tâm
hồn, tức là thơ có sức truyền cảm.
Ðó là thơ tả tình. Thí dụ: (trích truyện Kiều)
Một mình
nàng, ngọn đèn khuya
Áo dầm
giọt lệ, tóc se mái sầu
Hoặc:
Cũng liều
nhắm mắt đưa chân
Thử xem con
tạo xoay vần đến dâu!
Ðến như thơ tả cảnh thì đọc câu thơ lên thấy như vẽ
trước mắt ta phong cảnh tác giả muốn phô diễn. Thí dụ:
Chim hôm thoi
thót về rừng
Ðoá trà
mi đã ngậm trăng nửa vành
Hoặc:
Cỏ non xanh
tận chân trời
Cành lê
trắng điểm một vài bông hoa
Chỉ có một ngọn đèn khuya , chiếc áo nàng đang mặc
đẫm nước mắt và mái tóc bù rối của nàng mà người đọc tưởng tượng ra được một
thiếu phụ đang trải qua những đau thương , cay đắng của cuộc đời. Chỉ có 14 chữ
mà nói lên được cái tâm sự dằng dặc cả mấy trang nếu phải viết bằng văn xuôi.
Hai câu sau tả cảnh cũng thế. Một buổi chiều hiu
hắt, u buồn, chim lặng lẽ về tổ, đoá trà mi cô đơn dưới ánh trăng thượng tuần.
Vẫn có hoa và trăng nhưng hoa và trăng nhuốm vẻ tiêu điều như lòng người. Cái
buồn của nhân vật như lây sang ta, đó chính là truyền cảm.
Hai câu chót là bức tranh của Claude Monet hoặc của
Vincent van Gogh đưa tầm mắt ta ra xa đến tận chân trời, toàn mầu xanh tươi,
chỉ điểm vài cánh lê trắng muốt.
Thật tài tình. Và thật thơ.
Không chỉ trong những đọan tả cảnh, tả tình mà còn
là những đoạn Mượn Cảnh Tả Tình, có nghĩa người đọc chỉ cần chú ý vào không
gian, thời gian, sự vật xung quanh nhân vật mà thấy rõ được tâm sự nhân vật,
cái rất khó tả cho đúng. Chúng ta hãy đọc lại đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” sau
đây sẽ nhận ra điều đó:
Trước lầu
Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non
xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề
bát ngát xa trông
Cát
vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây
sớm, đèn khuya
Nửa tình nửa
cảnh như chia tấm lòng!
Tưởng người
dưới nguyệt chén đồng
Tin sương
luống những rày mong mai chờ
Bên trời góc
bể bơ vơ
Tấm son gột
rửa bao giờ cho phai?
Nhớ người tựa
cửa hôm mai
Quạt nồng ấp
lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách
mấy nắng mưa
Có khi gốc tử
đã vừa người ôm
Buồn trông
cửa bể chiều hôm
Thuyền ai
thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông
ngọn nước mới sa
Hoa trôi man
mác biết là về đâu
Buồn trông
ngọn cỏ rầu rầu
Chân mây mặt
nước một mầu xanh xanh
Buồn trông
gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng
sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bình giải sơ lược:
Sáu câu đầu tác giả tả nàng Kiều trong hoàn cảnh
tồi tệ nhất là ở “thanh lâu” (thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần), Kiều bẽ
bàng cho thân phận ngay cả khi ngắm áng mây buổi sớm, nhìn ngọn đèn leo lét ban
tối. Cảnh ấy, tình này làm cho lòng nàng đòi đoạn, đứt ruột (như chia tấm
lòng).
Bốn câu kế, Kiều nhớ đến Kim Trọng, người yêu đầu
đời và trọn đời. Nhớ đến đêm trăng sáng năm xưa cùng chàng thề thốt, nay biệt
vô âm tín mà tấm thân nhơ nhuốc này biết bao giờ gột rửa để trở nên trong sạch,
xứng đáng với chàng?
Bốn câu kế:”Nhớ người tựa cửa...” Kiều nhớ cha mẹ.
Không biết giờ này lấy ai thay mình phụng dưỡng song thân? Như ông Lão Lai ngày
xưa, thấy cha mẹ buồn liền ra sân múa hát, làm trò hề cho cha mẹ vui cười lên
mà khuây khoả tuổi già. Quay đi quay lại, ấy vậy mà cha mẹ trăm tuổi lúc nào
không hay (có khi gốc tử đã vừa người ôm).
Tám câu sau cùng tả cảnh nhưng là cảnh có tâm hồn
người hàm chứa trong đó: cửa bể, con thuyền, ngọn nước, hoa trôi, bèo dạt...
trong khi tạo vật vẫn vô tình với nỗi buồn của con người:” Ầm ầm tiếng sóng kêu
quanh ghế ngồi”
Hoặc như trong “Cung Oán Ngâm khúc”:
Cầu Thệ thủy
ngồi trơ cổ độ
Quán Thu
phong đứng rũ tà huy
Phong trần
đến cả sơn khê
Tang thương
đến cả hoa kia, cỏ này!
Tuồng huyễn
hoá đã bày ra đấy
Kiếp
phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn
có gì đâu
Chẳng
qua một nấm cỏ khâu xanh rì!
Nơi bến đò xưa, cây cầu bắc trên dòng nước chảy
không ngừng vẫn “trơ mặt với phong sương”, cũng như cạnh đó, quán trống, trong
nắng chiều yếu ớt, gió thu lạnh lẽo hun hút thổi làm cảnh trí càng thêm tiêu
sơ. Nàng cung nữ, vì nhớ đến thân phận hẩm hiu của mình, nhìn hoa cỏ, núi sông
đều thấy một mầu tang thương. Tất cả do “Tạo hóa đành hanh quá ngán” bày ra và
rốt cuộc kiếp người trôi nổi chỉ còn lại một nấm cỏ khâu xanh rì!
ÂM ĐIỆU, TIẾT TẤU
Nhiều nhà ngôn ngữ học quốc tế sau khi nghiên cứu về
tiếng Việt đã cho rằng tiếng Việt khi nói có âm điệu như hát (singing
language).
Sở dĩ có được kết luận đó vì tiếng Việt có các
thanh bằng, trắc khác nhau nên khi nói, các từ ngữ lên xuống theo các thanh cho
âm điệu và tiết tấu.
Thi sĩ tiếng Việt khi làm thơ lại càng cần phải để
ý đến các thanh bằng trắc này để cho bài thơ có âm điệu tiết tấu hay, dễ đọc và
quyến rũ. Chính bởi thế thơ có niêm luật, niêm là dính, luật là những chữ phải
bằng hay phải trắc hay phải hợp vận.Thí dụ hai câu lục bát:
Bằng bằng trắc trắc bằng bằng (vần)
Bằng bằng trắc trắc bằng bằng (vần) trắc bằng
Thành Tây có
cảnh Bích câu
Cỏ hoa
họp lại một bầu xinh sao
Đua
chen thu cúc, xuân đào
Lựu
phun lửa hạ, mai chào gió đông!
Những chữ 1,3,5 (nhất, tam, ngũ) bất luận, luật là
bằng nhưng có thể trắc, và ngược lại.(Vì bài này không chủ trương dạy cách làm
thơ, quí bạn đọc muốn nghiên cứu tường tận hơn về niêm, luật bằng trắc, vận có
thể đọc trong sách Việt Nam Văn học sử yếu của GS Dương quảng Hàm hoặc các sách
Văn học sử khác.).
Người làm thơ cần đặc biệt chú ý đến vần vì nếu thơ
không có vần (hợp vận), sẽ không được gọi là thơ, sẽ chỉ như văn xuôi được cắt
ra những đoạn 6 hoặc 7, 8 chữ v.v.... Có người đã ví một cách ngộ nghĩnh là thơ
không vần như mặc quần không áo, nó thiếu phần quan trọng để thành những câu
thơ như tác giả của nó mong muốn. Hơn nữa, vần dùng tài tình cho người đọc thơ
thấy tài của tác giả mà không phải ai cũng có thể làm được. Những bài thơ nổi
tiếng thường là những bài thơ vần được sử dụng chặt chẽ, khít khao và tài tình.
Thí dụ: Bản dịch “Lầu Hòang Hạc” của Tản Đà tiên
sinh từ nguyên tác Hòang Hạc lâu của Thôi Hiệu:
Hạc vàng ai
cỡi đi đâu
Mà nay Hòang
Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi
mất từ xưa
Ngàn năm mây
trắng bây giờ còn bay
Hán Dương
sông tạnh, cây bày
Bãi xa Anh Vũ
xanh dày cỏ non
Quê hương
khuất bóng hòang hôn
Trên sông
khói sóng cho buồn lòng ai!
Thơ tự do không bắt buộc phải có vần nhưng cũng cần
vần khi có thể để cho câu thơ nổi nang hơn, có chất thơ hơn. Còn thơ mới, vần
chữ cuối câu hay cước vận, bắt buộc phải có vận, hợp vận
Thí dụ:
Nào còn
đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi
đứng uống ánh trăng tan
Đâu những
chiều mưa chuyển động bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm
cảnh giang sơn ta đổi mới.
Đâu những
bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca
giấc ngủ ta tưng bừng
Đâu những
chiều lênh láng máu sau rừng...
(Hổ nhớ rừng - Thế Lữ)
Hoặc một đọan đầu trong bài “Nắng Quê Hương” của
tác giả bài này:
Em sang đây
mang giùm anh chút nắng
Nắng Sàigòn -
Hànội - Nắng Quê Hương
Nắng ngày xưa
em nhặt ở sân trường
Đem hong gió
Thu vàng hay ép sách.
TÓM TẮT
Một bài Thơ hay phải hội đủ ba yếu tố: Lời hay, Ý
đẹp, và Truyền cảm. Có cả ba yếu tố thiết yếu này, người ta gọi tắt là một bài
thơ hay, một bài thơ có hồn. Khi thi sĩ cảm hứng, tứ thơ tuôn tràn, hồn thơ lai
láng. Chính kẻ viết bài này, có nhiều lần bút không kịp ghi tứ thơ trên giấy,
phải dùng những chữ viết tắt mà chính tác giả mới đọc được, ghi vội ra vì nếu
để giây phút đó qua đi, sẽ không thể hoặc khó có thể làm được bài đã định. Sau
giây phút “xuất thần” đó, bây giờ mới thong thả coi lại bài thơ từ đầu tới cuối
và chỉnh những từ không vừa ý. Thường chỉ chỉnh sơ sài, dăm ba từ bị thay thế
cho thích hợp, nhưng cái cốt lõi đầu tiên, cái khung, cái hồn của bài thơ thì
không bao giờ thay đổi, bởi nó đã hay hoặc vừa ý (với chính nhà thơ.)
Thi sĩ phải có hứng sáng tác, thơ mới hay. Hứng là
cái sáo diều hoặc sợi dây đàn treo trong không gian, một làn gió nhẹ thổi qua
đủ làm nó phát ra thanh âm. Tâm hồn thi sĩ cũng ví như cái sáo hoặc sợi dây đàn
đó, một ý tưởng mới, một cảm nghĩ mới, một sự việc mới xảy ra trước mắt khiến
nhà thơ muốn dùng bút ghi lại sự việc hoặc những cảm nghỉ của mình trong khi
người không có tâm hồn thi sĩ, không để ý tới sự việc xảy ra, cũng không có
những cảm nghĩ mà nhà thơ có. Ðó chính là “Cái sáo hoặc sợi dây đàn” của thi
sĩ. Nó vô cùng bén nhạy nên thi sĩ mới có hứng thơ. Với nhà văn, hứng viết văn
cũng tương tự thế. Do đó, chúng ta phân biệt hai loại, nếu ghi thường: văn
xuôi; nếu ghi có vần điệu tiết tấu: Thơ. Cả hai đều là văn chương, tuy co những
nét đặc thù khác hẳn nhau.
Ðể làm rõ nét cái hứng của thi nhân, chúng tôi xin
đưa ra trường hợp Thi sĩ Ôn như hầu Nguyễn gia Thiều.
Tất cả chúng ta nhìn các cung nữ thời xưa, lúc son
trẻ được nhà vua vời vào cung làm cung phi đều là chuyện bình thường bởi vua có
quyền sinh sát toàn dân. Vua muốn là Trời muốn vì vua là Thiên tử, con Trời.
Riêng tác giả “Cung oán ngâm khúc” lại có cái nhìn khác. Thi nhân nghĩ chỉ vì
phải phục vụ cho những sắc dục tham lam, bất chính của nhà vua mà các cung nữ
này bị giam trong cung cấm, uổng phí cả một đời thanh xuân khi nhà vua chỉ dùng
các nàng cho một đêm vui rồi không bao giờ đoái hoài tới nữa làm nhiều cung phi
chết già trong cung cấm. Nhà vua, sau khi thoả mãn, ân ái một đêm, lại đi tìm
những bông hoa hương sắc khác để tủi hổ, bẽ bàng, đau khổ cho hàng trăm, hàng
ngàn cung phi mà họ không biết kêu cứu vào đâu được.(Ngán thay cái én ba
nghìn). Từ đó thi nhân viết cuốn “Cung oán ngâm khúc” để thay cho các cung phi
nói lên nỗi lòng đòi đoạn nơi cung cấm, may ra tiếng nói có thấu đến cửu trùng,
các nàng được giải thoát khỏi cuộc sống tối tăm, chết dần, chết mòn, được trở
về nơi thôn dã sống với gia đình và biết đâu lại có được một tấm chồng để nương
tựa suốt cuộc đời còn lại.
Vì đặt mình vào hoàn cảnh các cung phi bị thất
sủng, thi nhân đã cực tả được những đau xót của các cung phi:
Trải vách quế
gió vàng hiu hắt
Mảnh vũ y
lạnh ngắt như đồng
Oán chi những
khách tiêu phòng
Mà xui phận
bạc nằm trong má đào...
Trở lại ý hướng mượn cảnh tả tình của thi nhân,
chúng ta hãy đọc lại hai bài thơ (Đường luật) sau đây, của Bà huyện Thanh Quan
và Cụ Nguyễn Khuyến:
CHIỀU HÔM NHỚ
NHÀ
Trời chiều
bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa
đưa lẫn trống dồn
Gác mái ngư
ông về viễn phố
Gõ sừng mục
tử lại cô thôn
Ngàn mai gió
cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu
sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn
chương đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể
nỗi hàn ôn !
THU ÐIẾU
Ao thu lạnh
lẽo nước trong veo
Một chiếc
thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc
theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước
gió khẽ đưa vèo
Từng mây lơ
lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc
quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm
cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp
động dưới chân bèo.
Hai bài thơ này cùng làm theo thể Ðường luật, thơ
bảy chữ tám câu, rất phổ thông từ đầu thế kỷ thứ XIX. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng
là một trong những nhà thơ sử dụng thể thơ này nhiều nhất.
Bài “Chiều hôm nhớ nhà” có dăm tiếng Hán -Việt như:
hoàng hôn, ngư ông, viễn phố, mục tử, chương đài, lữ thứ nhưng không phải là
những chữ quá khó. Sáu câu đầu tả cảnh để làm nền cho hai câu cuối tả tình. Bạn
để ý cặp câu:”Gác mái... và Gõ sừng...”; cặp “Ngàn mai... và Dặm liễu...”,
(động tự đối với động tự, danh tự đối với danh tự) làm theo thể biền ngẫu nghĩa
là mỗi chữ đối nhau, nét đặc thù của thơ Ðường luật. Ðọc xong bài thơ ta thấy
tâm hồn ta cũng chìm lắng vào nỗi buồn của “kẻ chốn chương đài, người lữ thứ”
một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng thấm thía của hai tâm hồn xa nhau.
Như bài Thu Ðiếu, hay Mùa Thu câu cá, cặp câu
“thực” và “luận”: “Sóng biếc...” đối với “Lá vàng...” và “Từng mây...” đối với
“Ngõ trúc...”.Toàn bài không có một chữ Hán, một điển cố, vẽ ra bức tranh thu
êm đềm, tịch mịch trong đó chỉ có một động vật duy nhất là nhà thơ đang thả hồn
vào thiên nhiên với lá vàng rơi rụng, với từng mây xanh ngắt, với ngõ trúc quanh
co. Tất cả đã toát ra mùi vị Thiền và bức tranh:” Vạn vật đồng nhất thể” vô
cùng sâu sắc.
Hai bài thơ trên, cùng một số bài thơ khác của hai
tác giả này và nhiều tác giả khác như Nguyễn công Trứ, Cao bá Quát, Hồ xuân
Hương v.v…đã được đa số chúng ta học thuộc lòng từ hồi còn ngồi lớp 8, lớp 9
trong phần Cổ văn.
Tuy nhiên, vì thơ Đường luật phải tuân theo niêm,
luật, vần và biền ngẫu như thế nên từ thế hệ 1932, các nhà thơ đã than là thể
thơ này quá khó so với những thể thơ lục bát, song thất lục bát, nhất là thơ
mới và thơ tự do ra đời trong khỏang thời gian đó. Các cụ nói: “ Khó cho thiên
hạ đến bao giờ...” để nói về thể thơ Đường luật này. Hơn nữa, khi phải diễn tả
một tình cảm phức tạp, dài dòng thơ Đường không đáp ứng nổi như song thất lục
bát và lục bát.Và cũng kể từ đó, các thể thơ tự do, thơ mới 8, 9 chữ hay thơ 7
chữ, mỗi đọan bốn câu, gồm nhiều đọan, vần cuối ở các câu 1, 2, và 4 rất được
thịnh hành. Thể thơ Đường chỉ còn thấy thưa thớt nơi các cụ đồ nặng lòng với
thơ cổ khi xưa và những tác giả không thích thơ mới. Cũng nên lưu ý, thơ mới có
âm điệu, tiết tấu và cách diễn tả hùng mạnh mà thơ Đường không thể. Thơ tự do
cho người làm thơ diễn đạt ý tưởng không giới hạn nhưng cũng không phải dễ để
sáng tác một bài thơ tự do hay.
Để có một cái nhìn xuyên suốt về Thơ, nguyên tắc
chung cho hầu hết các môn khoa học là: hợp lý = dễ hiểu = dễ nhớ, dù là toán
học hay nhân văn. Từ những bài thơ cổ này, chúng ta cũng suy ra, để hiểu thơ
cũng như để sáng tác thơ, chúng ta cần một ít chữ Hán-Việt, hiểu nghĩa và cách
sử dụng chúng mới dễ quay trở khi làm thơ.
A-THƠ HAY RẤT DỄ THUỘC DỄ NHỚ
Từ đó ta thấy, thơ hay là thơ có thể học thuộc lòng
một cách dễ dàng. Một học sinh có trí nhớ trung bình chỉ cần ngâm nga hai bài
thơ của cụ Nguyễn Khuyến và bà huyện Thanh Quan nói ở trên vài lần là thuộc
lòng. Thơ đọc trúc trắc, khó hiểu, vô nghĩa, không dễ dàng học thuộc, chắc chắn
không phải thơ hay. Cũng nên lưu ý, thơ đọc trúc trắc chính vì tác giả của nó
không am tường luật bằng trắc hoặc không sử dụng đúng qui luật bằng, trắc và
vần.
Ðể kiểm chứng điều này, quí bạn đọc thử nhớ tên một
nhà thơ, ông A, bà B v.v…cố nhớ lấy một bài thơ hay vài câu thơ của họ mà quí
vị đã đọc, xem có thuộc được bài nào không, câu nào không. Không có, ấy là thơ
ra sao quí vị đã biết. Nhưng có nhiều tác giả thời nay lại nghĩ cứ làm thơ khó
hiểu, tối nghĩa hay vô nghĩa, cao kỳ, dùng những từ cho kêu là được quần chúng
ái mộ. Sự thực không phải thế. Thơ kêu nhưng rỗng thì không khác một cái thùng
phuy, càng rỗng càng kêu to.
Trước đây, rất nhiều người, ngay cả ở nông thôn
Việt nam, đã học thuộc lòng Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Lục Vân Tiên, Nhị Ðộ
Mai, Cung oán ngâm khúc, Tì bà hành, Trinh thử, Trê cóc, Ngư tiều vấn đáp, Lục
súc tranh công, Bích câu kỳ ngô v.v…lúc rảnh rang, đọc vanh vách cho nhau nghe
dù có nhiều người không có sách hoặc không biết chữ, chỉ học lóm bạn bè. Sở dĩ
họ thích, họ say mê vì lời Thơ gần gũi với họ, tả cái tâm lý chung của họ hay
người xung quanh họ như Jacques Prévert, một Thi sĩ Pháp có viết:” Ðọc Thơ lại
thấy có mình ở trong” cũng là ý nghĩa đó. Người nông dân học thuộc lòng dễ dàng
như vậy vì những câu Thơ này giản dị, dễ hiểu, hợp lý, vần vò. Chính bởi thế,
nguời ta còn gọi Thơ là văn vần để phân biệt với văn xuôi.
Trước 4-1975, ở miền Nam Việt Nam, có một số tác giả
làm Thơ đăng trên các báo, tạp chí, nguyệt san, cả những nguyệt san được coi là
thời thượng, nổi tiếng lúc đó mà nguời viết không tiện hài tên, bạn bè những
tác giả này cũng ca tụng họ hết mình như hàng thi bá (một nhược điểm của giới
làm Văn học Nghệ thuật cận và hiện đại, hay dở gì khen bừa); nhưng bây giờ hỏi
còn ai nhớ được một bài Thơ của họ hoặc ít nhất là tinh thần những bài thơ đó
không ? Chúng nói lên cái gì? Chúng ca tụng hay đả phá cái gì? Ðủ biết Thơ phải
gần gũi với dân gian mới có thể tồn tại với thời gian. Thơ xa rời thực tế là
chỉ để trang điểm nhất thời, dù Thơ bác học (Hán văn), cao xa đi nữa.
B-PHẢI GÂY ÐƯỢC SỰ XÚC ÐỘNG
Thơ là văn xuôi đã gạn lọc, cô đọng lấy phần tinh
tuý sâu sắc của văn chương nên Thơ phải súc tích và truyền cảm nghĩa là gây
được sự xúc động, xao xuyến từ tác giả sang người đọc.
Người đọc phải có được sự rung động của tác giả ,
dù cường độ kém hơn, mới được gọi là thơ hay. Thơ đọc lên trơ trơ trích trích,
không chuyển động được một “thớ thịt đường gân” nào của người đọc, đó là Thơ
kém giá trị. Ngưòi ta đọc Chinh phụ ngâm mà tưởng rằng mình là người chinh phụ,
có chồng sắp ra ngoài quan ải đánh giặc, giữ nước. Người ta đọc Cung Oán mà cứ
ngỡ mình là người cung phi bị thất sủng, nhà vua không đoái hoài tới.
Ðó là sự thành công của tác giả.
C-THƠ PHẢI NÓI LÊN MỌI KHÍA CẠNH CỦA ÐỜI
SỐNG
Ðành rằng Thơ tình ái là loại Thơ nhiều người làm,
nhiều người đọc nhất và cũng dễ làm hơn nhiều loại khác, nhưng một tác giả cả
đời chỉ viết được những bài thơ tình ái hoặc ca tụng đàn bà như nhà thơ Ðinh
Hùng là một (Ðường vào Tình sử, chính ông thú nhận), thì chưa thể gọi được là
đã quán xuyến về Thơ.
Hầu hết những bài Thơ hay của những tác giả như
Nguyễn bỉnh Khiêm, Nguyễn công Trứ, Trần tế Xương, Cao bá Quát, Bà huyện Thanh Quan,
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du, Tản Ðà, Nguyễn Trãi v.v…đều là Thơ về Thiền, Thơ yếm
thế, luận bàn thế sự, nhân tình thế thái, Thơ đạo lý, triết lý cuộc đời, thơ
nhàn v.v… mà rất ít hoặc không có Thơ tình.
Nguyễn Du tả Kiều trong thanh lâu, Kiều tiếp khách,
Kiều tắm… vì Kim Vân Kiều là một cuốn tiểu thuyết Nguyễn Du phỏng theo cốt
truyện của một tác giả Trung hoa (Thanh Tâm tài nhân) trước tác ra và đặt tên
là Ðoạn trường Tân Thanh. Là tiểu thuyết, vả lại trung thành với nguyên tác,
Ðoạn trường Tân Thanh cần phải có đủ tình tiết, hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục,
người đọc mới thấy hết được những khiá cạnh của nhân vật chính trong truyện.
Chứ không phải ông có ý tả chân để khiêu dâm như một số người đã gán cho ông
(Huỳnh thúc Kháng, Ngô đức Kế: ai, dâm, sầu oán, đạo, dục, tăng, bi) hay như
Nguyễn công Trứ: “Bán mình trong mấy mươi năm, Ðố đem chữ hiếu mà lầm được
ai.”)
Quan niệm coi Kim Vân Kiều là một cuốn tiểu thuyết
dâm ô đã quá lỗi thời. Trái lại người ta có thể tìm trong đó những vần thơ bất
hủ được lưu truyền mãi mãi. Chúng ta chỉ nên coi Kiều là một tác phẩm văn
chương mà thôi. Càng không nên đưa Kiều ra làm mẫu mực về đạo đức, luân lý (như
có tác giả đã làm) mặc dù nhân vật Kiều rất nhân bản, chứa đựng đầy đủ tâm lý
của con người bình thường.
Theo thiển ý, chỉ có một điều tiếc: Nguyễn Du không
sáng tác mà nhờ vào một cốt truyện Tàu, dĩ nhiên thuộc thời đại vua Tàu, nhân
vật Tàu, phong tục, văn hóa Tàu..., tuy cũng tương cận với chúng ta nhưng không
thể bằng tất cả đều là Việt Nam.
D-CUỘC ÐỜI: ÐỀ TÀI VÔ TẬN CHO THI NHÂN
Cõi nhân sinh này còn rất nhiều điều cần đến nhà
thơ, nhà văn ghé mắt đến. Nào là tôn giáo, gia đình, xã hội, đất nước, quê
hương, dân tộc, tự do, dân chủ, bình đẳng, nào là công bằng, bác ái, vị tha, hi
sinh cứu giúp kẻ khốn cùng… Ngay như thiên nhiên, cây cỏ, thú vật, chim muông,
gia cầm, gia súc cũng là những đề tài vô tận.
Học giả Phạm Quỳnh trong báo Nam Phong xuất bản năm
1921 có viết:”...Làm một bộ tiểu thuyết, cốt là đặt cho hay, viết cho khéo, cho
người đọc có hứng thú, ...có lẽ ở những nước văn minh có thể nghĩ như thế được;
nhưng ở những dân còn bán khai như dân ta thời văn chương rất là quan hệ cho
đời lắm, nhà làm văn có cái trách nhiệm duy trì cho xã hội, dìu dắt cho quốc
dân, nếu làm sai trách nhiệm ấy thời dẫu văn chương hay đến đâu cũng có tội với
quốc gia, với danh giáo vậy. Các nhà tiểu thuyết ta há không nên cẩn thận lắm
ru?” (Hết trích)
Tác giả Tô Hoài thời tiền chiến chỉ tả mấy con dế
mèn phiêu lưu mà cũng được học sinh đua nhau đọc, nổi tiếng một thời. Vậy không
phải chỉ Thơ tình ái mới ăn khách. Yêu đương, nhớ nhung, dang dở, chia phôi
…chỉ bấy nhiêu, không phải lúc nào độc giả cũng “tiêu hoá “được. Viết lắm sẽ
nhàm. Cứ một loại Thơ đó chỉ chứng tỏ tác giả không thể viết và nghĩ đa dạng mà
thôi. Có nghĩa là tác giả không đủ tài. Mà cuộc đời hiện đại lại quá đa dạng,
đa phương. Sự biến hoá của cuộc đời làm ta chóng mặt. Một vị Tổng Thống Mỹ, ông
Franklin Roosevelt bảo với mọi người, trước khi ông đọc diễn văn trước quốc
dân:” Vỗ tay nhiều không có nghĩa là diễn văn hay” Ta cũng có thể lấy câu đó áp
dụng cho một số tác giả trước đây ở miền Nam và ngày nay ở hải ngoại, thơ, văn
rất nghèo nàn nhưng bè bạn, theo cái mốt, dùng ống đu đủ thổi phồng và vỗ tay
quá lố. Và đó cũng là lý do làm mất niềm tin của đa số độc giả có trình độ.
Đ-LÀM THƠ PHẢI TUÂN THEO NIÊM LUẬT, BẰNG
TRẮC
Ngoại trừ Thơ tự do, không cần vần, không niêm luật
bằng trắc, không giới hạn số câu, số chữ trong câu (Xin đọc bài Thương tiếc
Columbia của người viết bài này), còn các thể thơ khác như lục bát, song thất
lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn (Ðường luật), Thơ Mới … đều phải theo luật Thơ
(vần, bằng trắc) Thơ mới hay. Vần dùng gượng ép, mất hay một phần. Chữ đúng ra
phải vần mà không vần, không hay.
Ngoài ra, cũng để nhắc lại, cách dùng chữ, gieo vần
thật quan trọng. Có nhiều từ kép, cụm từ có thể dùng xuôi ngược sao cũng cùng
nghĩa. TD: đớn đau hay đau đớn, trôi nổi hay nổi trôi, phiền muộn hay muộn
phiền, nghĩa đều như nhau. Nhưng không thể viết xa xót thay vì xót xa, loài lạc
thay vì lạc loài, nhiên tự thay vì tự nhiên v.v... Những chữ bị đảo ngược như
vậy hoặc có nghĩa khác hoặc vô nghĩa. Cần nhất là tránh làm Thơ vô nghĩa hoặc
tối nghĩa dù đọc lên đầy hán tự có vẻ bác học.
E-Ý QUAN TRỌNG HƠN LỜI
Ðiều chót, dù còn nhiều điều chưa nói do giới hạn
của bài này. Nếu ta không thể thoả mãn được cả hai phương diện hiệp vận (vần)
và ý thì nên dùng chữ nào cho rõ ý còn hơn là dùng chữ hiệp được vần mà ý sai
lạc hoặc vô nghĩa. TD: Bốn câu của cụ Yên Ðổ.
Cũng có lúc
chơi nơi dặm khách
Tiếng suối
nghe róc rách lưng đèo
Có khi từng
gác cheo leo
Thú vui con
hát lựa chiều cầm xoang
Tất cả đều hiệp vận ngoại trừ “leo” và “chiều”. Tuy
nhiên, “chiều” mới đúng nghĩa. Nếu dùng “chèo” thì hiệp vận nhưng sai nghĩa.
Thí dụ khác: Bốn câu Thơ dịch của người viết bài
này:
Xuân sang
ngoạn cảnh xem hoa
Hè về hóng
mát tà tà ao sen
Vào Thu rượu
cúc êm êm
Ðông coi
tuyết phủ, nối vần Nàng Thơ
(TÐN)
Tất cả đều hiệp vận, ngoại trừ “êm” và “vần” ,
nhưng đúng ý nghĩa. Giả sử thay hai chữ “nối vần” bằng hai chữ “êm đềm” cho vần
với câu trên thì trước nhất bị điệp ngữ êm, thứ hai “êm đềm Nàng Thơ” lại có
nghĩa khác, không nói được cái thú ngâm Thơ, sáng tác Thơ của tác giả. (Ðông
ngâm bạch tuyết thi). Bài thơ trên dịch từ bài thơ chữ Hán:
Xuân du
phương thảo địa
Hạ thưởng lục
hà trì
Thu ẩm hoàng
hoa tửu
Ðông ngâm
bạch tuyết thi
Ý nghĩa của một câu Thơ, một bài Thơ là quan trọng
như vậy.
Một bài Thơ hay, một câu Thơ hay rất dễ nhìn ra y
như một bông hoa đẹp. Ðâu cần phải phân tích cánh hoa làm sao, đài hoa, sắc hoa
thế nào, ta mới biết là bông hoa đẹp.
Tiền nhân xưa sáng tác Thơ, vào hội Thơ, ngâm Thơ
như một cái thú của đời người, nhất là khi về già. Không gì bằng có bạn Thơ, có
giấy bút, có rượu, dù chỉ thanh đạm, cùng làm Thơ, cùng bàn luận về văn chương,
về những hào khí của người xưa. Tổ tiên ta dùng Thơ để nói về mình, về người,
dạy đời, mỉa mai những thói rởm của đời, tôn vinh những thú vui thanh quí, cao
nhã “an bần lạc đạo” mà Thơ chính là một dụng cụ sắc bén và đắc dụng nhất cho
các mục tiêu đó. Ta thử đọc lại một bài thơ của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm:
THƠ NHÀN
Một mai, một
cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù
ai vui thú nào
Ta dại, ta
tìm nơi vắng vẻ
Người khôn,
người đến chốn lao xao
Thu ăn măng
trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ
sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc
cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú
quý tựa chiêm bao!
Bài sau đây của thi hào Tản Ðà Nguyễn khắc Hiếu,
làm cho vở chèo Thiên thai. Ðây là cảnh hai tiên nữ tiễn Lưu Thần, Nguyễn Triệu
về trần:
TỐNG BIỆT
Lá đào rơi
rằc lối Thiên thai
Suối tiễn,
oanh đưa những ngậm ngùi!
Nửa năm tiên
cảnh
Một bước trần
ai
Ước cũ, duyên
thừa có thế thôi!
Ðá mòn, rêu
nhạt
Nước chảy,
huê trôi,
Cái hạc bay
lên vút tận trời
Trời đất từ
đây xa cách mãi
Cửa động,
Ðầu non,
Ðường lối cũ,
Ngàn năm thơ
thẩn bóng trăng chơi!
Dù là một huyền thoại, người đọc Thơ không khỏi bùi
ngùi cho cuộc chia tay giữa người tiên, kẻ tục sau một thời gian ngắn chung
sống. Chữ dùng rất thanh thoát thích hợp với cảnh tiên: lá đào, Thiên thai, đá
mòn, rêu nhạt... cái hạc, cửa động, đầu non ... và kết thúc bằng ánh trăng mơ
hồ huyền ảo muôn đời soi bóng. Một bài Thơ tuyệt đẹp. Từ đó chúng ta suy ra Thơ
là thơ thẩn, là mơ hồ, đôi khi xa rời thực tế. Như nhà thơ Xuân Diệu đã viết:
Là thi sĩ
nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng
và vơ vẩn cùng mây...
Thơ là kết tụ của tình yêu, tình yêu nam nữ, vợ
chồng, tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người. Thơ là tự do, phóng khoáng, là
sắc sắc không không của nhà Phật, là Vô vi, Thiền quán như Lão tử thực hành và
đôi khi cũng cần phải yếm thế, chán cái đời sống đầy tục lụy này như Cao bá
Quát, hay châm biếm những thói rởm, tật xấu của người đời như Trần tế Xương...
Thơ thực quá, thô sơ quá, thơ không hay, không thoát. Nhiều bài không thể gọi
được là Thơ mà chỉ là những bài vè dân quê truyền tụng ở nông thôn. Thơ lục bát
tuy vậy rất khó làm, dễ trở thành bài vè ít giá trị. Làm được Thơ lục bát như
truyện Kiều là một tuyệt tác.
Có nhiều bạn đọc viết thư cho người viết hỏi họ có
thể sáng tác Thơ, có thể thành nhà thơ được không? Tiện đây, xin trả lời chung
như thế này:
Ai cũng có thể sáng tác và trở thành thi sĩ, nếu:
Yêu thơ, đọc nhiều thơ, học thuộc thơ kiểu mẫu, thơ
hay, chất Thơ ngấm vào trí óc giống như chất bổ ngấm vào thân thể, chúng giúp
cho nhà thơ rất nhiều. Tuy vậy xưa kia đã có những người thuộc lòng cả cuốn
truyện Kiều, cả cuốn Nhị độ Mai hay Bích câu kỳ ngộ nhưng vẫn không thể sáng
tác Thơ.
Có thiên khiếu về Thơ. Có sự rung cảm, xúc động sâu
xa như sợi dây đàn hoặc cái sáo trong không gian như đã nói ở trên.
Có vốn liếng nhiều về từ ngữ để sử dụng khi cần
diễn dịch một ý tưởng thành lời nói, chữ viết, nhất là thành Thơ. Thơ tiếng
Việt rất cần danh từ Hán - Việt.
Nắm vững các niêm, luật (bằng, trắc, vần) và các
thể Thơ. Dùng chúng như những cái chìa khóa dẫn đường vào việc sáng tác Thơ.
Tuân theo các niêm, luật đó ngoại trừ Thơ tự do.
Tuy nhiên, dù là Thơ tự do, nó vẫn không phải văn xuôi, vẫn cần một sự sắp xếp
ý, lời và vẫn cần vần khi có thể cho câu thơ nhịp nhàng, cân đối.
Ðể bạn đọc hiểu thêm, xin nói như thế này. Có những
nhà văn viết văn khá hay, nổi tiếng nhưng chính những nhà văn đó nói họ không
thể sáng tác Thơ mặc dù chữ nghĩa đầy đầu.
Ngược lại, có những thi sĩ không thể viết truyện,
viết bình luận, nghĩa là văn xuôi.
Bởi như đã nói, tuy cùng là văn chương nhưng chúng
hoàn toàn khác biệt về phương diện sáng tác. Lại cũng khác biệt về phương diện
thưởng thức. Cũng cần nói thêm, khi đã không có trình độ thưởng thức thì bài
nào cũng như bài nào, vàng thau lẫn lộn, bị đánh giá như nhau. Trình độ thưởng
thức chính là những kiến thức thu thập được trong lãnh vực Thơ, nó chính là
những bước căn bản đầu tiên đưa đến sự sáng tác Thơ nếu có hứng sáng tác.
Luận bàn về Thơ, chục pho sách cũng không đủ nói
hết. Ðể kết thúc bài mạn đàm thiếu sót về Thơ này, xin mời quí bạn đọc một bài
Thơ lục bát của tác giả bài này, bài “Chiều Ba Mươi”, thơ vui Tết và bài “Nói
với Bút” cả hai đã đăng trên nhiều báo từ năm 1978 và 1992. Bài sau tác giả
mượn cây bút để nói lên nỗi lòng của mình.
CHIỀU BA MƯƠI
Vòng tay nhật
nguyệt luân hồi
Đem Xuân trở
lại nét môi diễm kiều
Lược gương từ
giã cô liêu
Nâng niu mái
tóc đây chiều ba mươi
Trẻ thơ tươi
tắn nụ cười
Ðầu xanh, đầu
bạc người người vui lây
Gió ngoài
song, lạnh hiên tây
Chiều Xuân
thi hứng lúc đầy, lúc vơi
Trong bình
đào thắm, mai tươi
Nhìn em muốn
hỏi Xuân cười lúc nao?
Giang tay
bồng nhẹ Xuân vào
Môi son má
phấn: Mai, Ðào hay em?
NÓI VỚI BÚT
Bút ơi ! Yêu
bút thiết tha
Bút theo ta
chạy ta bà khắp nơi
Mùa Xuân rừng
núi rong chơi
Miền quê,
thành thị khắp nơi ra vào
Hạ về bút lắm
xôn xao
Biển giông
bão nổi ào ào chớm Thu
Mùa Ðông bút
có sương mù
Có đôi chim
gáy gật gù sớm mai
Ðường đời lắm
nẻo chông gai
Bút cùng ta
luận một vài điều hay
Cường quyền
bút chẳng run tay
Bút mong Dân
tộc những ngày sáng tươi
Chán đời vẫn
hé môi cười
Ta cùng với
bút một đời bên nhau
Vì ta bút
trải tình sâu
Vì ta nên bút
giãi dầu nắng mưa
Lòng ta bút
hiểu hay chưa ?
Thơ là tuyệt đỉnh, tuyệt đích của văn chương. Sáng
tác Thơ khó khăn hơn chơi Lan, chơi Bonsai, đánh cờ tướng, uống trà v.v... vì
nghề Thơ cũng lắm công phu, không phải chỉ thích Thơ rồi nhảy vào làm Thơ mà
Thơ hay được. Tuy nhiên, nếu đã có hồn Thơ tức dễ xúc động trước những biến
đổi, nghịch cảnh của cuộc đời, rồi trau dồi kĩ năng về Thơ, làm nhiều bài Thơ,
nghe ý kiến trung thực của bạn đọc và thân hữu, nhất là những người sành Thơ
thì việc sáng tác Thơ cũng tiến bộ vậy.
Xuân Vũ Trần Ðình Ngọc
Nhận xét
Đăng nhận xét