NHỮNG LỖI SAI PHỔ BIẾN KHI DÙNG TỪ HÁN VIỆT
NHỮNG LỖI SAI PHỔ BIẾN
KHI DÙNG TỪ HÁN VIỆT
Lớp từ Hán Việt thường có sắc thái trang
trọng, trong khi lớp từ thuần Việt lại bình dân và sinh động hơn. Nhiều từ Hán
Việt đã được Việt hóa thông dụng, có từ đã biến đổi ý nghĩa.
Khi từ gốc Hán được
Việt hóa
Nhiều
người dùng mượn hình thức ngữ âm của từ Hán rồi thay đổi nghĩa, thu hẹp nghĩa,
cho thêm nghĩa mới.
Ví
dụ, “phương phi” nghĩa Hán là “hoa cỏ thơm tho”, người Việt hiểu sang “béo tốt”.
Tương
tự, “khôi ngô” nghĩa “to lớn, cao to” sang nghĩa “mặt mũi sáng sủa, dễ coi”; “bồi
hồi” nghĩa “đi đi lại lại” sang nghĩa “sự xúc động”; “đinh ninh” nghĩa “dặn dò”
sang nghĩa “tin chắc, yên chí”; “lang bạt kỳ hồ” nghĩa “lúng túng, quanh quẩn tại
chỗ” sang nghĩa “lang thang khắp nơi khắp chốn” (Theo Đặng Đức Siêu, Ngữ
văn Hán Nôm)...
Từ
“khuyến mãi” nay dùng thành “khuyến mại”. Cụm từ “kích thích nhu cầu tiêu dùng”
rút thành “kích cầu” - từ này đang dần được chấp nhận. Từ “yêu cầu” là một động
từ. Nhưng hiện từ “yêu cầu” hay được dùng với nghĩa danh từ. Ví dụ: “mục đích
yêu cầu”...
Từ
“đáo để” trong tiếng Hán có nghĩa là “đến đáy”, nhưng khi đi vào tiếng Việt nó
lại có nghĩa là cách cư xử không đẹp, khiến người ta khó gần; hoặc có khi nó được
dùng làm tiếng đệm nhằm nhấn mạnh ý nghĩa của tính từ giống như các từ chỉ mức
độ “vô cùng”, “rất”, “lắm”... (Theo Hữu Đạt, Sai, đúng trong cách dùng từ
Hán Việt và vấn đề "giải pháp").
Trên
thực tế, các từ gốc Hán khi du nhập vào tiếng Việt hầu hết đã bị biến đổi do áp
lực của cấu trúc tiếng Việt.
Chỉ
sau một thời gian, bản chất Hán của các từ này đã bị tiếng Việt đồng hóa để
không còn cái vẻ nguyên dạng ban đầu. Hoặc là nó bị biến đổi về ngữ âm, hoặc là
nó bị biến đổi về ngữ nghĩa theo cách tri nhận mới của người Việt Nam qua cái vỏ
âm thanh ban đầu. Hoặc nhiều tiếng Hán Việt bị hiểu sai; lâu dần, cái nghĩa hiểu
sai được phổ biến hơn nghĩa tinh xác và do đó được công nhận là nghĩa đúng (Theo
Bùi Đức Tịnh, Ngữ pháp Việt Nam giản dị và thực dụng).
Những lỗi thường gặp
Nhiều
trường hợp người sử dụng chưa nắm được nghĩa của từ Hán Việt, khiến từ trở nên
vô nghĩa hoặc dẫn đến sai trầm trọng.
Dùng
từ sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt: nhầm lẫn giữa hai từ “khả năng” -
năng lực của con người có thể làm được việc gì đó với “khả dĩ”. Từ “quá trình”
là đoạn đường đã đi qua: “quá” là đã qua, “trình” là đoạn đường. Nếu viết từ
“quá trình” dùng ở thì tương lai “quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi
sẽ rất thuận lợi” là sai.
Có
thể dùng từ “tiến trình” cho câu trên. Ta có thể viết “hôn lễ” (lễ cưới), “hôn
phối” (lấy nhau). Nhưng nếu nói hôn phu, hôn thê, hôn quân lại mang nghĩa là
người chồng u mê, người vợ u mê, nhà vua u mê...
Sai
vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng
Nôm): chữ “góa phụ” trong sách báo chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Tính
từ “góa” là tiếng Nôm không thể đặt trước danh từ “phụ”. Nên gọi là gái góa
(toàn Nôm), hay “quả phụ” (toàn Hán Việt).
Từ
“nữ nhà báo” thường được dùng trên các phương tiện truyền thông. Nhà báo là tiếng
Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi là “nhà báo nữ”, hoặc dùng ba từ Hán Việt là “nữ
ký giả” hay “nữ phóng viên”.
Lạm
dụng và dùng sai từ Hán Việt khá phổ biến khi kết hợp từ “tặc” (ăn cướp) với
các từ khác như: tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, đinh tặc... để chỉ những
tên ăn trộm.
Cách
dùng này sai về ngữ pháp (từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán
Việt để thành một từ kép), sai về nghĩa: tặc là ăn cướp, đạo () là ăn trộm.
Thay vì sính dùng từ Hán Việt, ta có thể nói là: bọn ăn trộm tôm, trộm vàng, trộm
cà phê...
Hiện
từ “đinh tặc” đang được nhiều báo chí dùng với tần suất lớn với nghĩa chỉ bọn rải
đinh trên đường, trong khi “đinh tặc” chỉ có nghĩa là bọn ăn cướp đinh, chỉ bọn
rải đinh trên đường là sai nghĩa...
Nhiều
từ Hán Việt hiểu sai nên viết sai: từ “tham quan” nghĩa là đi chơi để ngắm
cảnh thay từ “thăm quan”; “chấp bút” viết thành “chắp bút”, “lặp lại” viết
thành “lập lại”, “trùng lặp” viết thành “trùng lắp”, “hằng ngày” viết thành
“hàng ngày”, “thập niên” viết thành “thập kỷ”, “điểm yếu” thành “yếu điểm”...
Tất
nhiên, khi xem xét tới tính sai, đúng của việc dùng từ Hán Việt, việc đối chiếu
từ nguyên là việc làm có phần cứng nhắc, dễ dẫn đến việc làm mất đi tính năng động
của từ Hán Việt với tư cách là một sự sáng tạo rất linh hoạt của người Việt
Nam.
Từ
Hán Việt tuy có nguồn gốc từ tiếng Hán, nhưng nó đích thị hoàn toàn là của người
Việt Nam, được dùng theo cách của người Việt Nam. Nên hiểu đúng và dùng đúng ngữ
nghĩa của từ Hán Việt là chúng ta đang góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt, bổ sung, làm giàu thêm vốn từ vựng phong phú, nối dài nét đẹp văn hóa và
chữ viết của người Việt.
Vai
trò của báo chí trong chuẩn hóa và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt có ý
nghĩa quan trọng. Bởi tiếng Việt là một trong số gần 50 ngôn ngữ đang được sử dụng
rộng rãi nhất trái đất. Không phải tự dưng tiếng Việt có thể tồn tại và phát
triển, trong khi đã có hàng ngàn ngôn ngữ và chữ viết của các dân tộc bị hủy diệt
theo dòng chảy phát triển của nhân loại.
Nhiều người dùng chưa nắm được nghĩa từ Hán Việt
Từ
Hán Việt là một loại từ đặc biệt trong vốn từ vựng tiếng Việt, là một bộ phận
rất quan trọng của kho từ vựng tiếng Việt.
Lớp
từ Hán Việt có khối lượng lớn, được sử dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học,
nghệ thuật...
Tuy
nhiên, theo thống kê sơ bộ của khoa ngôn ngữ, có tới 16 hình thức sử dụng sai
từ Hán Việt khá phổ biến hiện nay như: sai vì không hiểu gốc Hán Việt, sai vì
cố ý sửa gốc của từ, sai vì không hiểu văn phạm giữa Hán Việt và Hán Nôm, sai
vì dùng từ thiếu chính xác ngữ cảnh; dùng sai nghĩa từ thuần Việt lại tưởng từ
Hán Việt, dùng từ Hán Việt vô nghĩa và lộn xộn, cóp y nguyên tiếng Tàu đang sử
dụng và coi đó là từ Hán Việt, đảo ngược ngữ pháp hay cấu trúc từ Hán Việt, đảo
từ ghép Hán Việt sai và không đúng cách, thiếu từ cho các thuật ngữ khoa học
công nghệ hay chuyển nghĩa từ ngoại ngữ phương Tây sang...
|
LÊ
THỊ BÍCH HỒNG
Nhận xét
Đăng nhận xét