NGHĨ VỀ VIỆC DẠY TỪ VIỆT – HÁN TRONG TIẾNG VIỆT
NGHĨ VỀ VIỆC DẠY
TỪ VIỆT – HÁN TRONG TIẾNG VIỆT
Thời gian qua, vấn đề dạy chữ
Hán (tức mảng từ Việt Hán) trong nhà trường được báo chí đề cập nhiều lần và dư
luận quan tâm.
Các từ điển – tự điển
chữ quốc ngữ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX thể hiện hai dòng chính tả -ngoại nhập
và Việt hóa.
Có điều dạy chữ Hán trong trường
phổ thông hay đại học thì từ việc đào tạo giáo viên tới xây dựng chương trình,
biên soạn giáo trình v.v sẽ rất tốn tiền, mất nhiều thời gian, mà cung cách nhồi
nhét phổ biến trong nhà trường hiện nay chỉ làm công việc ấy trở thành một chuỗi
các hành vi bị động, thiếu hứng thú và ít sáng tạo ở phần đông chủ thể tiếp nhận,
trong khi đó phải là một quá trình tự nhiên và tự nguyện được nhất hóa vào hoạt
động sống của từng cá nhân. Cho nên phải nhìn nhận từ một góc độ khác, hành động
theo một cách thức khác.
Là một giá trị văn hóa phi vật
thể, ngôn ngữ là một không gian xã hội mang nhiều yếu tố di sản mà mọi người đều
phải hội nhập vào, đồng thời là một thực tại xã hội mang nhiều yếu tố đương đại
mà mọi người đều tham gia kiến tạo. Dưới mắt người bình thường, thực tại đời sống
hằng ngày thường được xem như tồn tại độc lập với ý muốn của mỗi người. Nhưng
dưới cái nhìn xã hội học, thực tại ấy không phải là một thứ thực tại tự nó và
không hề tồn tại tách rời khỏi cuộc đời của từng con người cá thể mà là một sản
phẩm, một công trình được tạo lập bởi đời sống xã hội và trong đời sống xã hội.
Nói cách khác, thực tại mà mỗi người chứng kiến và trải nghiệm trong đời sống hằng
ngày chính là thực tại được kiến tạo về mặt xã hội.
Tuy nhiên nhiều khi những con
người cá nhân trong đời sống thường nhật không nhận ra thực tại ấy là “công
trình của mình” nữa. Nói cách khác, con người có khả năng sản xuất ra một thực
tại sẽ phủ nhận chính họ (Peter L. Berger và Thomas Luckmann, Sự kiến tạo xã hội
về thực tại - Khảo luận về xã hội học nhận thức, bản dịch của nhóm Trần Hữu
Quang, NXB Tri thức, Hà Nội, 2015). Nếu ứng dụng nhận định xã hội học nói trên
vào việc nhìn nhận tiếng Việt, nhiều người sẽ thấy rõ cái thực tại này đã bị kiến
tạo kiểu xuyên tạc tới mức nào. Phương châm, khúc chiết, tham quan bị nhiều người
nói và viết thành phương trâm, khúc triết, thăm quan; hay quan ngại (chướng ngại
vật), tự vẫn (tự tử bằng dao) được hiểu là lo ngại, tự thắt cổ hay uống thuốc độc
v.v phổ biến trên báo đài, đã góp phần làm tiếng Việt mất đi sự trong sáng vốn
có chứ chưa nói là cần có.
Cũng cần nhìn qua hệ công cụ của
tiếng Việt tức chữ quốc ngữ Latin. Vì nhiều lý do, trước thời Pháp thuộc, Việt
Nam về cơ bản không có hoạt động nghiên cứu ngôn ngữ; một số nghiên cứu lẻ tẻ đầu
tiên về tiếng Việt của những người nước ngoài như Alexandre De Rhodes, Taberd
cũng chỉ dừng lại ở việc mô tả sơ bộ nhằm dạy tiếng Việt cho các giáo sỹ Thiên
chúa giáo phương Tây, chủ yếu để giao tiếp và truyền giáo. Sự xuất hiện của hoạt
động nghiên cứu ngôn ngữ dưới thời Pháp thuộc do đó đáng kể là một bước tiến
trên con đường hiện đại hóa, nhưng hoàn cảnh lịch sử đương thời cũng khiến nó
rơi vào tình trạng “dĩ Âu vi trung”, và việc du nhập các quan điểm ngôn ngữ học
phương Tây đã đưa tới những nhìn nhận không chính xác về tiếng Việt, nhất là
thông qua hệ công cụ văn tự mới tức chữ quốc ngữ Latin vốn còn nhiều khiếm khuyết.
Một khảo sát sơ bộ về các từ
điển – tự điển chữ quốc ngữ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX đã chỉ ra sự khác biệt
giữa hai dòng chính tả được gọi là dòng ngoại nhập và dòng Việt hóa, theo đó đặc
trưng của các từ điển thuộc dòng chính tả ngoại nhập là xếp mục vần theo ký tự
(vốn được coi là âm vị) và xếp các từ theo âm vị, ví dụ C - Ch, G - Gi, T - Th
– Tr… được xếp chung một mục mặc dù là những phụ âm đầu hoàn toàn khác nhau;
còn đặc trưng của các từ điển thuộc dòng chính tả Việt hóa là xếp mục vần theo
âm vị và xếp các từ theo âm tiết (chẳng hạn Hán Việt từ điển giản yếu của Đào
Duy Anh tách C và Ch, K và Kh thành những mục khác nhau). Hay một đặc trưng
khác của dòng chính tả ngoại nhập là thái độ ít thân thiện, nếu không nói là
thường xuyên bài xích đối với âm vị y trong mảng từ Việt Hán, và cần nhấn mạnh
rằng sau tháng 4/1975 sự thắng thế của nó đã được khẳng định với hàng loạt từ
điển tiếng Việt bên cạnh một số văn bản pháp qui về lối viết i/y (Xem Cao Tự
Thanh, I và Y trong chính tả tiếng Việt, NXB Văn hóa Văn nghệ Thành phố Hồ Chí
Minh, 2014).
Tương tự, trên các phương diện
khác cũng có tình hình qui đồng tiếng Việt về mẫu số ngữ pháp và ngữ nghĩa của
ngôn ngữ châu Âu, đến nỗi một nhà ngữ học xuất sắc đã phải nhiều lần la làng “về
sự khác biệt lớn lao giữa thứ tiếng Việt mà dân ta nói và viết với thứ tiếng Việt
được dạy ở nhà trường theo đúng tinh thần của các sách ngữ pháp tiếng Pháp xuất
bản vào những năm 1920 - 1930” (xem Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ
âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, NXB Giáo dục, 1999). Có thể nói sự phát triển ngôn ngữ
học ở Việt Nam là một bằng chứng điển hình về khuynh hướng quốc tế hóa1, chỗ
khác nhau cơ bản giữa thời Pháp thuộc và sau Cách mạng Tháng Tám chỉ là quốc tế
hóa cưỡng bức và quốc tế hóa tự nguyện, nhưng chính vì tự nguyện nên nguy cơ mất
gốc càng cao. Có điều chính loại học thuật không tổng kết đủ, không lý giải
đúng và do đó cũng không dự báo được về tiếng Việt ấy khi đưa vào nhà trường đã
thực sự là một tác nhân đưa tiếng Việt tới chỗ trở thành một vườn ươm cho những
mầm mống lai căng.
Một giải pháp trong
tầm tay
Thật ra sự suy thoái của tiếng
Việt đã diễn ra khá ồ ạt khoảng ba mươi năm nay trong đó nổi bật là việc hiểu
sai dùng sai mảng từ Việt Hán. Có điều muốn hiểu đúng dùng đúng thì phải được dạy
đúng, mà cho dù được dạy đúng thì vốn liếng tiếng Việt ngay cả của người tốt
nghiệp đại học cũng không đủ giúp họ tiến hành được các hoạt động ngôn ngữ -
văn tự một cách thuần thục và tự nhiên. Nhà trường không thể là nơi đào luyện
năng lực hoàn chỉnh và phù hợp về ngôn ngữ, vả lại ngôn ngữ là một sinh thể
luôn vận động và thay đổi, nên đó là một năng lực mà người ta phải tự rèn luyện
suốt đời. Cho nên có thể nghĩ tới việc cung cấp điều kiện để mọi người có thể tự
học sau khi rời khỏi nhà trường, nói rõ hơn là phải xác lập một hệ thống tiếng
Việt có qui chuẩn và có những cách thức phù hợp để xã hội hóa nó. Một Từ điển
tiếng Việt tổng hợp online có kèm chữ Hán, chữ Nôm và nguyên ngữ của những từ
nước ngoài du nhập được Việt hóa để mọi người tra cứu hay tham khảo miễn phí
trong hoàn cảnh mạng internet hiện nay hoàn toàn là một việc trong tầm tay.
Về đại thể, với một từ điển có
nội dung tích hợp như thế người không biết chữ Hán cũng có thể thấy rõ hai từ
tham quan (quan lại tham lam) và tham quan (tham dự quan sát) có tự hình khác
nhau và ít nhất cũng không lầm từ sau thành thăm quan, người không biết tiếng
Hoa được giải thích xường sám là trường sam (áo vạt dài) đọc theo âm Hoa Hán giọng
Quảng Đông thì sẽ không nói hay viết là sườn xám nữa. Học sinh sẽ viết là giấu
diếm chứ không viết là giấu giếm nhờ hiểu sự khác biệt về âm đọc giữa d+iếm và
gi+ếm, một số nhà báo cũng sẽ không tiếp tục đưa tin ai đó treo cổ hay nhảy xuống
sông tự vẫn vì họ đã biết chữ vẫn có bộ đao tức cắt cổ bằng dao, hai lối tự chết
kia là tự ải và tự trầm…
Những người thích tìm hiểu có
thể thấy từ nghĩa trang vốn có nghĩa gốc là “điền trang làm việc nghĩa” do một
số thương nhân và quan lại Trung Quốc từ thời Tống lập ra để giúp đỡ người
trong tông tộc, việc nó được dùng để chỉ nơi chôn cất người chết như ở Việt Nam
hiện nay chỉ mới xảy ra trong thế kỷ XX. Hay nhở trong nhắc nhở thật ra là nhớ
chuyển thanh theo qui luật thanh điệu (cùng là thanh Phù), sau khi chuyển thanh
vì có nét nghĩa qui ước khác với nhắc nhớ nên thành một từ mới, còn vì trong trị
vì là vị chuyển thanh (cùng là thanh Trầm), trị vị là xử lý công việc trên
ngôi, tức làm vua. Các từ ghép đẳng lập nửa Việt nửa Việt Hán như tôn thờ, nuôi
dưỡng sẽ được lý giải, nguồn gốc của hai từ kinh tế (kinh bang tế thế) và kinh
tế (economy) sẽ được giải thích rõ ràng.
Những đậm đà điệu đà mặn mà mượt
mà nuột nà ruột rà rườm rà thật thà thịt thà, chớn chở nức nở phớn phở trắc trở,
gọn ghẽ sạch sẽ mát mẻ mới mẻ màu mè v.v sẽ được giải thích có hệ thống chứ
không phải theo những phát kiến riêng lẻ bá láp, quan hệ ngữ âm giữa các cặp từ
Việt Hán và Việt hóa loại phàm - buồm, phi - bay, phòng - buồng, phố - búa, phủ
- búa, phụ - bố sẽ cho thấy búa trong chợ búa hoàn toàn không phải là bến trong
câu Trên bến dưới thuyền… Hẳn hoi, thẩn thơ, vơ vẩn, ngơ ngẩn có quan hệ thế
nào với hẳn hòi, thẩn thờ, vớ vẩn, ngớ ngẩn, quá trình biến đổi từ tha thiết tới
se sắt, da diết, ra rít sẽ được trình bày mạch lạc.
Thứ tự các phụ âm đầu trong từ
điển sẽ được sắp xếp ăn khớp với âm vị và âm tiết của tiếng Việt, ví dụ C và K,
G và Gh phải dồn lại làm một; Ch, Kh và Gi phải tách riêng v.v.
Khoảng mươi nhà nghiên cứu và
kỹ thuật viên lập trình có năng lực và kinh nghiệm biên soạn một từ điển như thế
nhiều lắm cũng chỉ mất trên dưới bốn năm, so với một biên chế tương tự dạy tiếng
Việt và chữ Hán trong trường đại học không mất nhiều thời gian hơn nhưng hiệu
quả xã hội trên phương diện phổ biến tiếng Việt đúng qui chuẩn chắc chắn cao
hơn. Tất nhiên việc sửa chữa và bổ sung định kỳ trên cơ sở những thành tựu
nghiên cứu mới và sự góp ý của dư luận phải được tiến hành, nhưng cho dù mỗi lần
phải sửa chữa thêm bớt tới 10 - 15 % thì chi phí cũng không đáng kể vì không phải
in ấn.
Một từ điển kết hợp nhiều lối
giải thích như giải thích từ vựng (ý nghĩa từ), giải thích từ nguyên (nguồn gốc
từ), giải thích từ pháp (cách tạo từ) như vậy nếu được thực hiện nghiêm túc và
có phương pháp không chỉ có tác dụng trong việc dạy từ Việt Hán mà còn ít nhiều
giống như tổng kết từ vựng tiếng Việt trước nay trong hoàn cảnh mới, sẽ có tác
dụng lâu dài và chắc chắn tới việc tự học tiếng Việt của nhiều cá nhân trong
nhiều năm.
***
Nhìn từ góc độ xã hội hóa cá
nhân, ngôn ngữ là một không gian xã hội mà mọi người đều phải nhập thân vào, một
số người do nghề nghiệp còn phải thực hiện quá trình cá thể hóa nhưng ai cũng
phải thực hiện quá trình tiêu chuẩn hóa. Cho nên khi chưa có một hệ thống ngôn
ngữ được chuẩn hóa trước hết về từ vựng và chính tả thì quá trình ấy vẫn còn
thiếu điều kiện để có thể được thực hiện ở tất cả các cá nhân và nhóm xã hội.
Việc giáo dục trong nhà trường là một trong những cách xã hội hóa tiếng Việt chứ
không phải là cách duy nhất, tóm lại giao trọn một nhiệm vụ to tát như thế cho
những người vốn không thể thực hiện nó thì bất kể thế nào cũng không phải là một
hành động khôn ngoan.
Khác với tiến trình quốc tế
hóa, tiến trình hiện đại hóa luôn đòi hỏi kiểm điểm lại tất cả những nguồn lực
truyền thống, nhìn nhận lại toàn bộ những kinh nghiệm quá khứ, trên cơ sở ấy cụ
thể hóa truyền thống thành những bài học mới, những giá trị sống trong sinh hoạt
thường nhật của mọi tầng lớp xã hội trên phạm vi toàn quốc gia. Đó chính là xuất
phát điểm để nhìn nhận và thực hiện việc dạy tiếng Việt trong đó có mảng từ Việt
Hán hiện nay. Dĩ nhiên không thể đòi hỏi một người bình thường có kiến thức, nhận
thức và ý thức về các vấn đề ngôn ngữ nói chung hay tiếng Việt nói riêng như
các nhà nghiên cứu, nhưng nếu được học một cách đúng hướng và đúng cách thì ai
cũng có thể có một tâm thức ngôn ngữ lành mạnh phát huy được tác dụng tích cực
trong các hoạt động ngôn ngữ - văn tự, và đó chính là nền tảng văn hóa - xã hội
bền vững cho sự phát triển của tiếng Việt ngay cả trên những khúc quanh hiểm
nghèo sẽ xuất hiện trong tương lai.
Cao Tự Thanh
-----------------
1 Hai khái niệm quốc tế hóa và
hiện đại hóa dùng trong bài viết này dĩ nhiên còn cần có sự thảo luận, song
chúng tôi quan niệm hiện đại hóa cơ bản là sự thay đổi các tổ chức, thiết chế, quan
hệ trong cấu trúc kinh tế – xã hội theo hướng hoàn thiện hơn để phù hợp với nhu
cầu và xu thế trước hết của các hoạt động sản xuất cả vật chất lẫn tinh thần
trong quốc gia, còn quốc tế hóa chủ yếu là sự tiếp thu các mô hình, chuẩn mực,
giá trị nước ngoài trên phạm vi rộng và với quy mô lớn để thích ứng trước hết với
sự giao dịch thế giới. Xem thêm Cao Tự Thanh, Đại Nam Thực lục Chính biên Đệ thất
kỷ, NXB Văn hóa Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2012, tr. 46.
Nhận xét
Đăng nhận xét