TỪ HÁN VIỆT, TỪ THUẦN VIỆT CÓ THỂ VÀ KHÔNG THỂ
TỪ HÁN VIỆT, TỪ THUẦN VIỆT
CÓ THỂ VÀ KHÔNG THỂ
Trên báo Văn Nghệ (Hội nhà
văn Việt Nam) số 22 ngày 31-5-2008, mục “Nói chuyện chữ nghĩa” có bài “Thay từ
Hán-Việt bằng từ thuần Việt” của Phan Điển Ánh. Tác giả đưa ra một số trường hợp cho rằng không thể thay thế và có
thể thay thế từ Hán-Việt bằng từ thuần Việt. Xin có đôi lời trao đổi:
Từ “cá nhân” Phan Điển
Ánh xếp vào những từ “không thể dùng từ nào khác thay thế được” là không đúng.
Bởi theo tôi, trong từng trường hợp cụ thể vẫn có thể thay thế. Ví dụ “cá nhân”
có thể thay bằng một người/một mình (Câu: Lợi ích cá nhân không thể đặt trên lợi
ích tập thể = Lợi ích của một người không thể đặt trên lợi ích của nhiều người,
hoặc: Cá nhân tôi không thể quyết định = Một mình tôi không thể quyết định;
hay: Chiếc giường cá nhân = Chiếc giường một (giường cỡ hai người nằm là
"giường đôi") v.v…Những từ thay thế từ “cá nhân” đều là từ tạm gọi thuần Việt và có ý nghĩa tương đương, không hề
khiên cưỡng.
Với những từ Hán Việt
Phan Điển Ánh đề xuất có thể thay thế bằng "từ thuần Việt" cũng không
hợp lý, cho dù tác giả lưu ý: “những từ cần thay đi và những từ cần thế vào
không hoàn toàn tương đương ở mọi trường hợp” (Đã không thể thay thế hẳn từ Hán
Việt bằng từ thuần Việt trong "mọi
trường hợp", thì đặt ra vấn đề "thay thế" làm gì thêm rắc rối?).
Ví dụ:
- Từ “quan sát” không thể
thay bằng “xem xét” . Mặc dù khi giải nghĩa từng từ tố, quan có nghĩa là xem,
sát có nghĩa là xét (như giải thích của Đào Duy Anh trong “Từ điển Hán Việt”).
Trong thực tế, từ “quan sát” được hiểu là cách nhìn mang tính đại thể, tổng
quát, nhìn từ xa, để thấy được, nắm được tình hình hoạt động hay tình trạng
(thường là bề ngoài) của một sự vật, hiện tượng nào đó. Trong khi “xem xét” lại
có nghĩa tìm hiểu, xét đoán một cách cặn kẽ, thấu đáo sự việc, bản chất vấn đề
nào đó (không đơn thuần là bề ngoài) để rút ra nhận xét, kết luận cần thiết. Ví
dụ, ta không thể thay thế từ "quan sát" trong "Đài quan
sát" = "Đài xem xét", hoặc "Địch quan sát thấy mục
tiêu..." = "Địch xem xét thấy mục tiêu...". Ngược lại ta không thể viết: "Toà xem
xét lá đơn kêu oan..." = "Toà quan sát lá đơn kêu oan...". Như vậy,
“quan sát” và “xem xét” không phải là hai từ có nghĩa tương đương, không thể
hoán đổi vị trí cho nhau trong mọi trường hợp.
-Từ “khiếm thị” , không
thể thay thế bằng “kém mắt” như Phan Điển Ánh khẳng định. Bởi “khiếm” 欠 đây có nghĩa là
thiếu (trong từ khiếm khuyết), “thị” 視, có nghĩa là "nhìn", sự cảm
nhận của con mắt đối với sự vật (trong từ thị giác, thị lực). Từ “khiếm thị” 欠視 thường chỉ những người dị tật bẩm
sinh, không có khả năng nhìn thấy. Bởi vậy, trong mọi trường hợp, từ “khiếm thị”
không thể thay thế bằng từ “kém mắt”,
(hay mắt kém) với nghĩa thị lực kém hoặc mắt không nhìn thấy rõ lắm. Từ “khiếm
thị” có thể thay thế bằng một từ khác, đó là
mù (chỉ chung những người không có, hoặc không còn khả năng nhìn thấy,
do dị tật bẩm sinh, do tai nạn hoặc lão hoá). Tuy nhiên, cần lưu ý, người ta có
thể gọi người khiếm thị là mù, nhưng không phải người mù nào cũng có thể gọi là
khiếm thị.
-Từ “phát biểu” không thể
thay thế bằng từ “nói” trong mọi trường hợp như
Phan Điển Ánh đề xuất. Bởi vì, “phát biểu” thường chỉ ý kiến của người
nào đó trước một tập thể, hội nghị, buổi toạ đàm hay cuộc họp, nhằm khẳng định,
bày tỏ quan điểm chính thức của mình. Trong khi từ “nói” thiên về nghĩa giao tiếp
thường ngày nói chung. Sẽ là khiên cưỡng nếu thay thế từ “phát biểu” trong câu:
"Phát biểu ý kiến trước Quốc hội" = "Nói ý kiến trước Quốc hội".
Ngoài ra, còn rất nhiều
từ, cụm từ Phan Điển Ánh đề xuất thay thế bằng từ, cụm từ thuần Việt khác, chưa
hợp lý. Ví dụ “người và phương tiện”
không thể thay thế bằng “người và xe”, vì phương tiện không nhất thiết phải hiểu
là xe, mà có thể là tàu thuyền, ngư cụ hoạt động trên sông biển. Hoặc “người
tham gia giao thông” không thể thay thế bằng “người đi đường”, bởi "người
đi đường" có khi không bao hàm ý nghĩa "tham gia giao thông", ví
dụ người đi đường một mình, đi bộ trên đường đê, đường mòn vắng vẻ. Trong khi
đó, "người tham gia giao thông" được hiểu là đi trên đường có nhiều
người và phương tiện giao thông khác, chịu sự ảnh hưởng, tác động qua lại. Hoặc
từ “giải thích” không thể thay bằng “phân bua”, vì "phân bua" không
chỉ có nghĩa giải thích, mà còn bao hàm ý thanh minh cho một hành động, việc
làm hay sự hiểu lầm nào đó (đồng nghĩa "phân trần"). Mặt khác, cơ sở
nào để Phan Điển Ánh khẳng định từ “phân bua” là "từ thuần Việt"?,v.v...
Cần thấy rằng, việc thay
thế "từ Hán Việt" bằng "từ thuần Việt", hoặc đã được Việt
hoá là để nói và viết hay hơn, chính xác, dễ hiểu và đại chúng hơn... Ví dụ
thay thế những từ khó hiểu, tạo hiệu quả rõ rệt trong mọi trường hợp như: thu
ngân nên thay bằng thu tiền; đáo hạn nên thay bằng đến hạn; phân ưu nên thay bằng
chia buồn... Không có lý do gì bỗng dưng cố tìm từ "thuần Việt" để
thay thế cho "từ Hán Việt", ngay cả khi không cần thiết, hoặc khiên
cưỡng. Thậm chí thay thế cả những từ đã được Việt hoá, phổ thông và không có
nghĩa tương đương trong mọi trường hợp, như: “cường điệu = thổi phồng; vĩ đại =
to lớn; thiếu nhi/nhi đồng = trẻ em/trẻ nhỏ; giải thích = phân bua; chưa chính
xác = chưa đúng”, v.v…như cách đề xuất của Phan Điển Ánh. Trong khi đó, những từ
thay thế không hay hơn, không ngắn gọn hoặc dễ hiểu hơn, thậm chí trở nên ngô
nghê, thô thiển, thiếu chính xác.
HOÀNG TUẤN CÔNG
Nhận xét
Đăng nhận xét