CẨN TRỌNG KHI DÙNG TIẾNG VIỆT ĐỂ “ĐẶT TÊN” CHO DANH TỪ TRUNG QUỐC
CẨN TRỌNG KHI DÙNG TIẾNG VIỆT
ĐỂ “ĐẶT TÊN”
CHO DANH TỪ TRUNG QUỐC
Đây là lúc người Việt Nam chúng ta cần phải có lòng tự tôn dân tộc
trong cách nói, cách viết theo chuẩn mực quốc tế để vạch mặt chỉ tên trước công
luận quốc tế
Từ ngày 1/5/2014 đến nay, giàn khoan mang tên khai sinh “Haiyang
Shiyou 981” mà truyền thông nước ta gọi là “Hải Dương 981”, có lúc còn viết tắt
rất chủ quan là HD 981, còn theo tiếng Anh là CNOOC 981. Như vậy, giữa “Haiyang
Shiyou 981”, “HD981” và “CNOOC 981” là những số hiệu, tên gọi hoàn toàn khác
nhau. Vì sao có chuyện đó, và làm sao để quốc tế thấu rõ điều này?!
Tiếng Việt
với các danh từ nước ngoài!
Tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu tượng hình, tượng thanh, giàu cung bậc
tình cảm. Đã từ lâu tên Nước, tên Thủ đô, thành phố, tỉnh lỵ, tên các địa danh
núi, sông, biển, đảo cho đến tên người của Trung Quốc hiện đang được phiên âm
theo một quy tắc riêng, một cách mỹ miều ưu ái đặc biệt làm cho người nước
ngoài ngộ nhận, gây bất lợi cho phía Việt Nam trong quan hệ quốc tế và đấu
tranh pháp lý bảo vệ chủ quyền .
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 華/中华;
phiên âm là Zhonghua. Tiếng Anh gọi là China, tiếng Nga gọi là Kytai, tiếng Nhật
gọi là Chuka, tiếng Triều Tiên gọi là Junghwa, Chunghwa , tiếng Indonesia
gọi là Tionghua, còn Việt Nam gọi là “Trung Quốc” .Thực tế với tên gọi
“Trung Quốc” đã không phân biệt được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với chính thể
tại Đài Loan là Trung Hoa Dân Quốc. Thủ đô là Beijing mà chúng ta lại cứ quen gọi
là “Bắc Kinh”, thành phố như Shanghai thì gọi là “Thượng Hải”… tỉnh Guangxi thì
gọi là “Quảng Tây”… rồi “Quảng Đông”… cứ như một tỉnh ở xứ “Quảng” miền Trung của
Việt Nam ta vậy!
Đảo Hainan gọi là “Hải Nam”, đảo Taiwan gọi là “Đài Loan”, đảo Jinmenn
gọi là “Kim Môn”, đảo Mazu Liedao gọi là “Mã Tổ”. Sông Chang Jiang gọi là “Trường
Giang” trùng với tên của một con sông ở Quảng Nam. Nếu họ trâng tráo bịa
đặt thì họ nói sông đó là của họ thì sao!?
Với cách gọi như thế, “người ta” trịch thượng cho mình là “kẻ cả” để coi
thường rằng “Thấy người sang bắt quàng làm họ” thì làm sao!? Điều đáng nói là
trong tranh chấp chủ quyền biên giới, biển đảo, họ đã lợi dụng cách gọi “Hữu
nghị” một số địa danh thuộc chủ quyền của Việt Nam để vơ vào làm của mình hoặc
đánh lừa công luận quốc tế.
Tiếng Việt trong các văn bản, sách vở đều gắn họ tên của nhiều nhân vật
lịch sử, nhân vật chính khách… của họ đều được gắn với những họ tên mỹ miều có
dấu, có họ tên chữ lót hẳn hoi. Ví dụ như: Tào Tháo, Lưu Bị, Hàn Phức, Trương
Như, Tôn Quyền , Vương Nguyên Cơ… Hiện nay có Hoa Xuân Oánh, Hồng Lỗi,
Vương Quán Trung, Phó Oánh, La Viện, Bạc Lai Hy, Lưu Chí Quần, Từ Tài Hậu… đều
là những cái tên rất Việt Nam. Vì những cái tên đó có họ, chữ lót… rất giống
ta!
Về khảo cổ học Việt Nam, không có ràng buộc họ hàng với nước láng giềng vì nước ta lưng tựa vào Trường Sơn, nằm ven biển Đông với các lưu vực sông Hồng, Sông Mã, Sông Lam, Sông Gianh… Đều được đánh dấu có nền văn minh lúa nước của người Việt cổ - là một trong những chiếc nôi của loài người cách đây hàng ngàn năm.
Về nhân chủng học, người Việt Nam không có huyết thống hay sắc tộc với những nước láng giềng. Từ thể hình, gương mặt, mi mắt, giọng nói đều khác biệt…
Người Việt cổ có tiếng nói và chữ viết riêng biệt song đã mất đi ký tự, nên trong thời kì ngàn năm Bắc thuộc đã phải dùng ký tự Hán để phiên âm qua chữ Nôm cho tiếng Việt. Qua thời kỳ Pháp - đã có chữ Quốc ngữ với các dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, các chữ cái như ô, ơ, ê...
Về khảo cổ học Việt Nam, không có ràng buộc họ hàng với nước láng giềng vì nước ta lưng tựa vào Trường Sơn, nằm ven biển Đông với các lưu vực sông Hồng, Sông Mã, Sông Lam, Sông Gianh… Đều được đánh dấu có nền văn minh lúa nước của người Việt cổ - là một trong những chiếc nôi của loài người cách đây hàng ngàn năm.
Về nhân chủng học, người Việt Nam không có huyết thống hay sắc tộc với những nước láng giềng. Từ thể hình, gương mặt, mi mắt, giọng nói đều khác biệt…
Người Việt cổ có tiếng nói và chữ viết riêng biệt song đã mất đi ký tự, nên trong thời kì ngàn năm Bắc thuộc đã phải dùng ký tự Hán để phiên âm qua chữ Nôm cho tiếng Việt. Qua thời kỳ Pháp - đã có chữ Quốc ngữ với các dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, các chữ cái như ô, ơ, ê...
Tiếng Việt là thứ tiếng lâu đời của người Việt cổ tồn tại cho đế ngày
nay khác với tiếng Hán hoàn toàn. Tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ thuần Việt
của “Nam Quốc Sơn Hà” từ thời Vua Hùng dựng nước, Hai Bà Trưng khởi binh
chống lại quân Hán, tuyên ngôn của Lý Thường Kiệt, Đại cáo bình Ngô, Hịch tướng
sỹ, Tuyên ngôn Độc lập 1945 và nay đã trở thành ngôn ngữ chính thống của Việt
Nam thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Tiếng Việt vinh dự có tên trong danh mục dịch
thuật trực tuyến translate.google của 80 nước, bình đẳng với tiếng UK, France,
USA, Rossiya, Germania, Italia…
Phát âm tên, họ người Trung Quốc khác với ta, song khi phiên âm thì
chúng ta lại gắn họ tên chữ lót giống như người Việt chúng ta để dễ đọc, để dễ nhớ… Công bằng mà nói các nước có ký tự tượng hình giống Trung Quốc như
Taiwan ( ta gọi là Đài Loan ) , Japan (Nhật Bản), Korea (Triều Tiên)… nhưng khi
phiên âm ra tiếng Việt lại khác nhau hoàn toàn. Ví dụ, về tên người Hàn Quốc
thì Lee Young Ae, Kim Soo Hyun, Đài Loan thì Song Hye Kyo, Nhật thì Keiko
Matsuzaka… Tên thủ đô các nước đó là Tokyo… mà đâu có dấu.
Danh từ của các nước ASEAN và các nước Laos, Cambodia cũng được ta theo
tập quán quốc tế như Kuala Lumpur, Singapore, Pnompenh, Vientiane… họ tên người
cũng khác hẳn.
Danh từ
trong truyền thông nên theo thông lệ quốc tế!
Đã qua rồi thời kỳ chữ Quốc ngữ nước ta phải mượn Hán - Nôm để phiên âm
qua tiếng Việt. Riêng về tên người và tên địa danh của ta là thuần Việt. Tên -
Họ của 64 dân tộc ở Việt Nam được bảo tồn lưu giữ, các địa danh trong nước
đều được viết bằng tiếng Việt với những cái tên rất đẹp.
Quần đảo thiêng liêng thuộc máu thịt Tổ quốc mang tên rất đẹp Hoàng Sa
có tên là Bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng với vô số hòn đảo, hòn đá, cồn đụn, bãi cạn
lúc nổi lúc chìm. Quần đảo Hoàng Sa được chia làm hai nhóm đảo là nhóm đảo An
Vĩnh và nhóm đảo Lưỡi Liềm. Có tài liệu chia quần đảo làm ba phần, trong đó
ngoài hai nhóm trên thì còn có một nhóm nữa gọi là nhóm Linh Côn và các địa
danh thuần Việt như bãi đá Bắc, bãi Ốc Tai Voi, đảo Tri Tôn, bãi Gò Nổi… mà
không trộn lẫn được với Trung Quốc trong các tài liệu lịch sử của họ.
Trong cuốn sách De la Cochinchine, Tableau (Taberd) viết:
"Beaucoup plus loin de la côte, en face de Hué, est l’archipel des
Paracels ou de Kat-vang, rempli d’écueils. Enfin, les redoutables bancs de
Macclesfield se trouvent à l’est des Paracels". (Xa hơn kể từ phía bờ biển,
ở phía trước của Huế là Paracels hoặc Kat-vang, đầy đá ngầm. Cuối cùng, bãi ngầm
Macclesfield đáng sợ nằm ở phía đông của Paracels).
Trên tất cả các bản đồ cổ do các nhước châu Âu xuất bản đề có chữ
la-tinh “Bai kat vang”. Đó chính là Bãi cát vàng – tên của quần đảo Hàng Sa thuộc
chủ quyền Việt Nam. Phiên âm đó đúng nghĩa, đúng tên gọi của chúng ta. Vì vậy,
sử dụng tiếng Việt chuẩn xác trong quan hệ quốc tế cũng là điều rất quan trọng
trong đấu tranh bằng biện pháp hòa bình và đấu tranh pháp lý để bảo vệ chủ quyền
quốc gia, đặc biệt là biển đảo Tổ quốc.
“Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông”, vì vậy cũng không vì
tình hữu nghị mà bỏ qua tập quán quốc tê về ngôn ngữ giao tiếp trong cách xưng
hô địa danh quốc gia. Tên núi tên sông tên đảo, tên người mang trọng trách
thiêng liêng phân định rạch ròi chủ quyền quốc gia. Đặc biệt, khi sử dụng ngôn
từ trong các văn bản khởi kiện hành vi độc chiếm biển Đông ra các toà Quốc tế!
Vì vậy, không nên tuỳ tiện dùng tiếng Việt có dấu khi phiên âm các địa
danh, tên người của nước ngoài. Dù bất cứ nước nào có thể gây bất lợi cho chúng
ta trong đấu tranh pháp lý bảo vệ chủ quyền. Vì vậy, trong các văn bản quốc tế về
ngoại giao, thương mại, kinh tế, an ninh – quốc phòng hay trong cách thể hiện
trên các phương tiện thông tin truyền thông đại chúng như Vô tuyến truyền hình,
đài phát thanh, báo chí, ấn phẩm đều nên có sự thống nhất cách thể hiện danh dự
quốc thể. Không để ai lợi dụng tình “hữu nghị” trong để lợi dụng hoặc đánh lừa
dư luận quốc tế.
Sự kiện giàn khoan “Haiyang Shiyou 981” mà truyền thông nước ta gọi là
“Hải Dương 981” viết tắt là HD 981, còn theo tiếng Anh là CNOOC 981. Như vậy,
việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam, cùng việc công bố đường lưỡi bò 9 đoạn đang phơi bày
toàn bộ dã tâm bành trướng, hung hăng, tàn ác bất chấp đạo lý dưới những chiêu
bài “hòa bình hữu nghị”, đặc biệt là “16 chữ vàng” và quan hệ “4 tốt” của
Trung Quốc.
Đây cũng là lúc người Việt Nam chúng ta cần phải có lòng tự tôn dân tộc
trong cách nói, cách viết, dùng đúng tên theo chuẩn mực quốc tế để vạch mặt chỉ
tên trước công luận quốc tế đồng thời cảnh giác với những âm mưu lợi dụng ngôn
từ hòng xâm phạm chủ quyền của ta. Đó là cách để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng
cũng là bảo vệ nền văn hóa Việt Nam!
Tiếng Việt mang giá trị văn hóa phi vật thể vô giá. Đây cũng là trách
nhiệm làm trong sáng tiếng Việt và bảo vệ vốn ngôn ngữ độc lập thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ với giá trị cao quý của chúng ta!
TS Trần Đình Bá
Hội Khoa học kinh tế Việt Nam
Không chỉ có đường 9 đoạn, mới
đây Trung Quốc còn trưng ra bản đồ dọc có đường 10 đoạn bao trọn biển Đông. Luận
điệu này không chỉ bị các nước có liên quan phản đối, mà cộng động quốc tế cũng
không đồng tình.
Nhận xét
Đăng nhận xét