SỰ CHUYỂN NGHĨA LÝ THÚ CỦA TỪ HÁN VIỆT THEO THỜI GIAN
SỰ CHUYỂN NGHĨA LÝ THÚ
CỦA TỪ HÁN VIỆT
THEO THỜI GIAN
Trong vốn từ tiếng Việt hiện nay hàng loạt từ ngữ đã không còn được
dùng theo nghĩa gốc/nghĩa cơ sở ban đầu/ “nghĩa xưa”, mà được dùng với nghĩa
chuyển/nghĩa mới/nghĩa phái sinh/“nghĩa nay”, mà hai phương diện nghĩa này khác
xa nhau, thậm chí có trường hợp còn trái ngược nhau.
Trong thời gian gần đây, “khuất
tất” là một trong những từ có tần suất xuất hiện trên báo chí khá cao, với
nghĩa là “không đường hoàng, không rõ ràng, bị che giấu; ám muội, bất minh, đen
tối, mờ ám”, trái nghĩa với “minh bạch”.
Thế nhưng qua tra cứu một số từ
điển, chúng tôi nhận thấy “khuất tất” là một từ Hán Việt mang nét nghĩa cơ bản:
Quỵ lụy, luồn cúi; Ví dụ: Không bao giờ chịu khuất tất.
Nghĩa
nay trội hơn nghĩa xưa
Rõ ràng, hiện nay nghĩa gốc Hán
của từ “khuất tất” hoàn toàn bị tiêu biến, mất đi, không còn được ai hiểu nữa,
mà người dùng đã hiểu theo một nghĩa Việt thông dụng hoàn toàn mới.
Tương tự, chúng ta có thể dễ
dàng tìm thấy trong vốn từ tiếng Việt hiện nay hàng loạt từ ngữ đã không còn được
dùng theo nghĩa gốc/nghĩa cơ sở ban đầu/ “nghĩa xưa”, mà được dùng với nghĩa
chuyển/nghĩa mới/nghĩa phái sinh/“nghĩa nay”, mà hai phương diện nghĩa này khác
xa nhau, thậm chí có trường hợp còn trái ngược nhau. Nhiều trường hợp nghĩa xưa
đã bị tiêu biến đi, người Việt hiện nay không hề đả động gì đến cái nghĩa xưa ấy
nữa, mà tất cả mọi trường hợp nhất loạt đều sử dụng theo nghĩa nay.
Thêm một trường hợp tiêu biểu
cho sự mất nghĩa của từ vừa đề cập ở trên là từ “vấn nạn”. Nghĩa nay của “vấn nạn”
là “vấn đề khó khăn lớn có tính chất xã hội, đang phải đương đầu đối phó một
cách cấp thiết”, được sử dụng trong các trường hợp như: “vấn nạn tham nhũng”,
“vấn nạn cờ bạc”, v.v..
Nhưng nghĩa xưa của từ “vấn nạn”
trong khá nhiều từ điển khác xa nghĩa nay, nó có nghĩa là: Hỏi để làm khó nhau;
ví dụ: Sứ ta qua Tàu thường bị các quan Tàu vấn nạn. Trong khoảng thời gian vài
mươi năm trở lại đây, nếu chúng tôi không nhầm thì hình như người Việt tuyệt
nhiên không dùng từ “vấn nạn” với nghĩa “hỏi vặn, làm khó” này.
Hoặc như từ “trụy lạc”, nghĩa hiện
nay là “Sa ngã vào lối sống ăn chơi thấp hèn, xấu xa. Sống trụy lạc. Đi vào con
đường trụy lạc”.
Vậy mà lui lại vài mươi năm trước,
chỉ mới ở nửa đầu thế kỷ 20, nhà văn Khái Hưng đã có một truyện ngắn nhan đề Hai
cảnh trụy lạc với nghĩa là “nghèo khổ cùng cực”; truyện miêu tả tình cảnh
hai nhân vật vốn con nhà gia thế, danh giá, vì thời cuộc mà gia cảnh dần sa sút
đến nghèo khổ, đáng thương.
Ngày nay, nếu nhằm tỏ lòng
thương cảm ai đó nghèo khổ, sa sút mà ta trót nhỡ cảm thán thốt lên “cuộc đời
anh thật là trụy lạc!” thì dễ hình dung điều gì “đáng thương” gì sẽ xảy ra cho
chính người nói.
Từ “khốn nạn” cũng vậy. Nghĩa
nay của “khốn nạn” là “Hèn mạt, không còn chút nhân cách, đáng khinh bỉ, nguyền
rủa”, ví dụ: “Đồ khốn nạn”; nhưng nghĩa xưa của nó lại là: Khốn khổ.
Mặc dầu từ điển hiện nay cũng
ghi nhận nghĩa này: “Khốn khổ đến mức thảm hại, đáng thương” nhưng chắc chắn hiện
nay không còn ai dùng từ “khốn nạn” với nghĩa đó nữa.
Tác phẩm Les
Misérables của đại văn hào Pháp Victor Hugo ra đời năm 1862. Cuốn tiểu
thuyết nổi tiếng vào hạng bậc nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 19 này trước
khi định hình tên tiếng Việt Những người khốn khổ như hiện nay đã từng
được Nguyễn Văn Vĩnh dịch và xuất bản năm 1926 với nhan đề Những kẻ khốn nạn.
Từ “đểu cáng”, hiện nay có nghĩa
là “Xỏ xiên, lừa đảo đến mức bất kể đạo đức (thường dùng làm tiếng mắng), ví dụ:
Bộ mặt đểu cáng.
Nhưng nghĩa xưa của nó là chỉ những
người thuộc giới lao động vận tải, kiểu như xe thồ, xe ôm, xích lô, ba gác hiện
nay (gần đây có thêm Uber, Grab): “Phu khiêng cáng, phu gánh”. Có ý kiến cho rằng
vì giới này thuở ấy khiêng người, gánh hàng hóa thường thiếu thật thà, hay biển
lận tiền bạc, tài sản mà khách bỏ quên hoặc đánh rơi trên cáng, trên võng, nên
lâu dần từ “đểu cáng” mất hẳn đi nghĩa gốc ban đầu, chỉ còn dùng duy nhất với
nghĩa như hiện nay.
Một số
trường hợp tương tự
Dưới đây là một số từ Hán Việt hầu
hết được dùng theo nghĩa mới, thoát ly nghĩa cũ. Ở đây chúng tôi chỉ xin cung cấp
nghĩa cũ của chúng để bạn đọc tiện đối chiếu, so sánh với nghĩa hiện nay.
Chẳng hạn những từ: “Quyết liệt”
- Hủy hoại, phá hoại; “trụ sở” - người đứng ra gánh vác việc lớn của
quốc gia; “phản động” - hành động trái lại với việc khác; “thủ đoạn”
- phương pháp làm việc; “lợi dụng” - vật tiện lợi để dùng; “dã tâm”
- lòng thích nhàn hạ, ghét chốn phồn hoa; v.v..
Chúng tôi nhận thấy hiện tượng
nghĩa của từ được sử dụng hiện nay không đồng nhất với nghĩa gốc của từ trong
quá khứ; thậm chí có nhiều trường hợp hai nghĩa này đối lập, trái ngược nhau;
trong đó thiên về xu hướng sử dụng từ với nghĩa mới chiếm ngự hoàn toàn, còn
nghĩa gốc của từ đã bị tiêu biến hẳn đi.
Đỗ Thành Dương
Nhận xét
Đăng nhận xét