TỪ HÁN VIỆT, TỪ THUẦN VIỆT CÓ THỂ VÀ KHÔNG THỂ
TỪ HÁN VIỆT, TỪ THUẦN VIỆT
CÓ THỂ VÀ KHÔNG THỂ
Trên báo Văn Nghệ (Hội
nhà văn Việt Nam), mục “Nói chuyện chữ nghĩa” có bài “Thay từ Hán-Việt bằng
từ thuần Việt” của Phan Điển Ánh. Tác giả đưa ra một số trường hợp
cho rằng không thể thay thế và có thể thay thế từ Hán-Việt bằng từ thuần Việt.
Xin có đôi lời trao đổi:
Từ “cá nhân”
Phan Điển Ánh xếp vào những từ “không thể dùng từ nào khác thay thế được” là
không đúng. Bởi theo tôi, trong từng trường hợp cụ thể vẫn có thể
thay thế. Ví dụ “cá nhân” có thể thay bằng một người/một mình (Câu: Lợi
ích cá nhân không thể đặt trên lợi ích tập thể = Lợi ích của một
người không thể đặt trên lợi ích của nhiều người, hoặc: Cá
nhân tôi không thể quyết định = Một mình tôi không thể quyết định;
hay: Chiếc giường cá nhân = Chiếc giường một (giường cỡ hai
người nằm là "giường đôi") v.v…Những từ thay thế từ “cá
nhân” đều là từ tạm gọi thuần Việt và có ý nghĩa tương đương, không
hề khiên cưỡng.
Với những từ Hán Việt Phan
Điển Ánh đề xuất có thể thay thế bằng "từ thuần Việt"cũng không hợp
lý, cho dù tác giả lưu ý: “những từ cần thay đi và những từ cần thế vào
không hoàn toàn tương đương ở mọi trường hợp” (Đã không thể thay thế hẳn từ
Hán Việt bằng từ thuần Việt trong "mọi trường hợp", thì đặt
ra vấn đề "thay thế" làm gì thêm rắc rối?).
Ví dụ:
- Từ “quan sát” không
thể thay bằng “xem xét” . Mặc dù khi giải nghĩa từng từ tố, quan có
nghĩa là xem, sát có nghĩa là xét (như giải thích của Đào
Duy Anh trong “Từ điển Hán Việt”). Trong thực tế, từ “quan
sát” được hiểu là cách nhìn mang tính đại thể, tổng quát, nhìn từ xa, để
thấy được, nắm được tình hình hoạt động hay tình trạng (thường là bề ngoài) của
một sự vật, hiện tượng nào đó. Trong khi “xem xét” lại có nghĩa
tìm hiểu, xét đoán một cách cặn kẽ, thấu đáo sự việc, bản chất vấn đề nào đó
(không đơn thuần là bề ngoài) để rút ra nhận xét, kết luận cần thiết. Ví dụ, ta
không thể thay thế từ "quan sát" trong "Đài quan
sát" = "Đài xem xét", hoặc "Địch quan
sát thấy mục tiêu..." = "Địch xem xét thấy mục
tiêu...". Ngược lại ta không thể viết: "Toà xem
xét lá đơn kêu oan..." = "Toà quan sát lá đơn kêu
oan...". Như vậy, “quan sát” và “xem xét” không phải
là hai từ có nghĩa tương đương, không thể hoán đổi vị trí cho nhau trong mọi
trường hợp.
-Từ “khiếm thị” , không
thể thay thế bằng “kém mắt” như Phan Điển Ánh khẳng định. Bởi “khiếm” 欠 đây có nghĩa là thiếu (trong từ khiếm
khuyết), “thị” 視, có
nghĩa là "nhìn", sự cảm nhận của con mắt đối với sự vật (trong từ thị
giác, thị lực). Từ“khiếm thị” 欠視 thường chỉ những người dị tật bẩm sinh, không có khả
năng nhìn thấy. Bởi vậy, trong mọi trường hợp, từ “khiếm thị” không
thể thay thế bằng từ “kém mắt”, (hay mắt kém) với nghĩa thị lực
kém hoặc mắt không nhìn thấy rõ lắm. Từ“khiếm thị” có thể thay thế bằng một
từ khác, đó là mù (chỉ chung những người không có, hoặc không còn khả
năng nhìn thấy, do dị tật bẩm sinh, do tai nạn hoặc lão hoá). Tuy nhiên, cần
lưu ý, người ta có thể gọi người khiếm thị là mù, nhưng không phải
ngườimù nào cũng có thể gọi là khiếm thị.
-Từ “phát biểu” không
thể thay thế bằng từ “nói” trong mọi trường hợp như Phan
Điển Ánh đề xuất. Bởi vì, “phát biểu” thường chỉ ý kiến của người nào
đó trước một tập thể, hội nghị, buổi toạ đàm hay cuộc họp, nhằm khẳng định, bày
tỏ quan điểm chính thứccủa mình. Trong khi từ “nói” thiên về nghĩa
giao tiếp thường ngày nói chung. Sẽ là khiên cưỡng nếu thay thế từ “phát
biểu” trong câu: "Phát biểu ý kiến trước Quốc hội" =
"Nói ý kiến trước Quốc hội".
Ngoài ra, còn rất nhiều từ, cụm
từ Phan Điển Ánh đề xuất thay thế bằng từ, cụm từ thuần Việt khác, chưa hợp lý.
Ví dụ “người và phương tiện” không thể thay thế bằng“người và xe”,
vì phương tiện không nhất thiết phải hiểu là xe, mà có thể là tàu
thuyền, ngư cụ hoạt động trên sông biển. Hoặc “người tham gia giao
thông” không thể thay thế bằng“người đi đường”, bởi "người
đi đường" có khi không bao hàm ý nghĩa "tham gia giao
thông", ví dụ người đi đường một mình, đi bộ trên đường đê, đường mòn
vắng vẻ. Trong khi đó, "người tham gia giao thông" được
hiểu là đi trên đường có nhiều người và phương tiện giao thông khác, chịu sự ảnh
hưởng, tác động qua lại. Hoặc từ “giải thích” không thể thay bằng “phân
bua”, vì "phân bua" không chỉ có nghĩa giải thích,
mà còn bao hàm ý thanh minh cho một hành động, việc làm hay sự hiểu lầm
nào đó (đồng nghĩa "phân trần"). Mặt khác, cơ sở nào để Phan Điển
Ánh khẳng định từ “phân bua” là "từ thuần Việt"?,v.v...
Cần thấy rằng, việc thay thế
"từ Hán Việt" bằng "từ thuần Việt", hoặc đã được Việt hoá
là để nói và viết hay hơn, chính xác, dễ hiểu và đại chúng hơn... Ví dụ thay thế
những từ khó hiểu, tạo hiệu quả rõ rệt trong mọi trường hợp như: thu
ngân nên thay bằng thu tiền; đáo hạn nên thay bằng đến hạn;
phân ưu nên thay bằng chia buồn... Không có lý do gì bỗng dưng cố
tìm từ "thuần Việt" để thay thế cho "từ Hán Việt", ngay cả
khi không cần thiết, hoặc khiên cưỡng. Thậm chí thay thế cả những từ đã được Việt
hoá, phổ thông và không có nghĩa tương đương trong mọi trường hợp,
như: “cường điệu = thổi phồng; vĩ đại = to lớn; thiếu nhi/nhi đồng = trẻ
em/trẻ nhỏ; giải thích = phân bua; chưa chính xác = chưa đúng”, v.v…như cách đề
xuất của Phan Điển Ánh. Trong khi đó, những từ thay thế không hay hơn, không ngắn
gọn hoặc dễ hiểu hơn, thậm chí trở nên ngô nghê, thô thiển, thiếu chính xác.
HOÀNG TUẤN CÔNG
29/06/2008
Nhận xét
Đăng nhận xét