LUẬT HỎI NGÃ TRONG TIẾNG HÁN VIỆT
LUẬT HỎI NGÃ
TRONG TIẾNG HÁN VIỆT
Tiếng Việt gồm hai loại, tuy
liên hệ nhau nhưng vẫn giữ đặc tính riêng rẽ:
- Tiếng HÁN VIỆT là chữ Hán đọc
theo giọng Việt.
- Tiếng NÔM là tiếng do người Việt-nam tạo nên với những tiếng mượn của nước ngoài nhưng đã Việt-hoá.
- Tiếng NÔM là tiếng do người Việt-nam tạo nên với những tiếng mượn của nước ngoài nhưng đã Việt-hoá.
1
TIẾNG
HÁN-VIỆT
Tiếng Hán-Việt là tiếng mượn của
tiếng Hán nhưng đọc theo giọng của người Việt. Phần lớn tiếng Hán-Việt là những
tiếng gồm hai tiếng trở lên. Ví dụ: quốc gia, kinh tế, quân sự, chánh trị, xã hội,
ngoại giao, văn hoá, dân chủ, công ty, v.v. Trong tiếng Việt hiện nay, khoảng
60% là tiếng Hán-Việt. Chúng ta xử dụng khá nhiều tiếng Hán-Việt trong mọi giao
tiếp và nói năng hằng ngày.
Ví dụ: "Hôm qua nghiệp
đoàn công nhân tổ chức hội nghị thảo luận vấn đề gia tăng niên liễm". Chỉ
có hai chữ thuần Việt là "hôm qua", còn các chữ khác đều là
tiếng Hán-Việt.
Tiếng Hán-Việt có quy luật riêng
về dấu Hỏi Ngã. Vì vậy, nếu xử dụng được Luật Hỏi Ngã trong tiếng Hán-Việt thì
chúng ta đã giải quyết được hơn 60% công việc về dấu Hỏi Ngã.
Tiếng Hán-Việt có hai đặc tính:
1. Về Chánh tả: giữa âm và giọng
có sự liên quan chặt chẽ.
- Các tiếng Hán-Việt khởi đầu
bằng một Nguyên-âm, chỉ có thể có dấu Sắc, dấu Hỏi, hoặc Không dấu.
- Các tiếng Hán-Việt khởi đầu
bằng các Phụ-âm: M-N-NH-V-L-D-NG [Mình Nên NHớ Viết Là Dấu NGã] chỉ có thể có dấu Ngã hay Nặng.
2. Về vị trí của các tiếng
dùng chung:
Tiếng Chỉ-định luôn luôn đứng
trước tiếng được chỉ-định, gọi là Ngữ-pháp đặt ngược
Ví dụ:
Bạch tượng. Bạch chỉ định, làm cho rõ nghĩa tiếng tượng.
Ký sinh trùng. Ký chỉ định sinh, ký sinh chỉ định trùng.
Bạch tượng. Bạch chỉ định, làm cho rõ nghĩa tiếng tượng.
Ký sinh trùng. Ký chỉ định sinh, ký sinh chỉ định trùng.
CÁCH
NHẬN BIẾT TIẾNG HÁN-VIỆT
1. Các tiếng Hán-Việt thường
không tách ra dùng riêng một mình, mà phải dùng trọn từ.
Chẳng hạn chỉ có thể
nói làm thương mãi chớ không thể nói làm thương, làm mãi, hoặc
nói làm chánh trị chớ không thể nói làm chánh, làm trị v.
v...
Vậy mỗi khi gặp một từ ghép, ta
thử tách các tiếng cấu tạo từ ấy ra riêng rẽ, nếu chúng không dùng độc lập được,
thì đó là một tiếng Hán-Việt.
2.
Về nghĩa của một tiếng Hán-Việt.
Các tiếng hợp lại để làm thành một
từ Hán-Việt đều có nghĩa, nhưng nghĩa của chúng rất mơ hồ đối với những người
không có một trình độ Hán học nhất định. Ví dụ như nếu đem xét riêng biệt các
chữ: dĩ, nhiên, hành, chánh, lãnh, tụ, thì chúng đều có nghĩa cả, nhưng hỏi
nghĩa thế nào thì không dễ trả lời.
Cho nên khi gặp một từ ghép, nếu
cả hai tiếng đều mơ hồ về nghĩa ví dụ như: cảnh giác, mãnh liệt, dũng cảm,
thì đó là từ Hán-Việt.
Còn các Tiếng-Nôm-đôi và Tiếng-Nôm-Lấp-láy
thì đều có khả năng dùng riêng ra từng chữ và nghĩa của chữ dùng riêng đều rõ
và dễ nhận biết. Ví dụ: xe lửa, máy bay, tàu ngầm, xe đạp.
Do đó, dựa vào cách phân biệt
như trên, chúng ta dễ dàng biết được tiếng nào là tiếng Hán-Việt và tiếng nào
là Tiếng Nôm.
a) Tóm lại:
Tất cả tiếng HÁN-VIỆT khởi đầu bằng
các nguyên-âm: A, Â, Y, O, Ô, U, Ư, đều viết DẤU HỎI vì các
nguyên-âm của Tiếng Hán-Việt thuộc Thanh-âm (Bổng).
Ví dụ: Ải quan, Ảnh hưởng, Ẩm thực,
Ẩn dật, Ỷ lại, Oải nhân, Ổn thỏa, Ủy hội, Ưởng.
Phụ chú: Sách của G.s. Lê-ngọc-Trụ
có ghi Ê và I vào nhóm nguyên âm nầy. Nhưng vì chữ HÁN-VIỆT không có chữ nào khởi
đầu bằng Ể, Ễ hoặc Ỉ, Ĩ nên tôi không ghi hai nguyên âm nầy vào, cho người học
đỡ mệt trí [Đ-s-T].
b) Tất cả tiếng HÁN VIỆT khởi đầu
bằng phụ âm CH, GI, KH, PH, TH, S, X, đều viết DẤU HỎI vì các phụ-âm
nầy cũng thuộc Thanh-âm (Bổng).
Ví dụ:
- CHẩn đoán, CHỉ huy, CHỉnh tề, CHiểu chi, CHủ tọa, CHưởng quản.
- GIải phẫu, GIảm thiểu, GIản tiện, GIảng đường, GIảo quyệt, học GIả.
- KHả dĩ, KHải hoàn, KHảo thí, KHẩu hiệu, KHổng giáo, KHủng hoảng
- PHản bội, PHẩm cách, PHỉ báng, PHổ thông, PHủ nhận. (trừ PHẫn nộ)
- THải hồi, THảm thương, THản nhiên, THảo mộc, (trừ Mâu THuẫn, Phù THũng)
- Sản khoa, Sảnh đường, Sỉ nhục, Siểm nịnh, Sở dĩ, Sủng hạnh, (trừ Sĩ = học trò)
- Xả thân, Xảo trá, công Xưởng, (trừ Xã hội, Xã trưởng, Hợp tác Xã)
- CHẩn đoán, CHỉ huy, CHỉnh tề, CHiểu chi, CHủ tọa, CHưởng quản.
- GIải phẫu, GIảm thiểu, GIản tiện, GIảng đường, GIảo quyệt, học GIả.
- KHả dĩ, KHải hoàn, KHảo thí, KHẩu hiệu, KHổng giáo, KHủng hoảng
- PHản bội, PHẩm cách, PHỉ báng, PHổ thông, PHủ nhận. (trừ PHẫn nộ)
- THải hồi, THảm thương, THản nhiên, THảo mộc, (trừ Mâu THuẫn, Phù THũng)
- Sản khoa, Sảnh đường, Sỉ nhục, Siểm nịnh, Sở dĩ, Sủng hạnh, (trừ Sĩ = học trò)
- Xả thân, Xảo trá, công Xưởng, (trừ Xã hội, Xã trưởng, Hợp tác Xã)
Để khỏi bỏ sai dấu, xin độc giả
đừng lẫn lộn tiếng Hán Việt với những tiếng Nôm sau đây:
CHĨNH=hủ bằng đất; GIÃ (giã gạo,
từ giã); GIÃI (giãi bày); GIÃN (co giãn, giãn ra= tăng độ dài: dây cao su bị
giãn); PHŨ (phũ phàng); THÃI (thừa thãi); SŨNG (ướt sũng)
c) Tất cả tiếng HÁN VIỆT khởi đầu
bằng Bảy phụ âm M-N-NH-V-L-D-NG đều thuộc Trọc-âm, cho nên viết DẤU
NGÃ (trừ một ngoại lệ duy nhất là Ngải cứu).
Ví dụ:
- Lãng mạn, Lãnh đạm, Lão ấu, Lẫm liệt, Lễ nghĩa, Lũng đoạn, thành Lũy, Lãng phí.
- Mã não, Mãi mại, Mãn nguyện, Mỹ Mãn, Mãnh hổ, Mẫn tiệp, Mẫu nghi, Mỹ nữ.
- Não tủy, Noãn sào, Nỗ lực, phụ Nữ.
- NGẫu nhiên, NGũ cốc, đội NGũ, ngôn NGữ.
- NGHĩa khí, NGHiễm nhiên, NGHĩa trang.
- NHã ý, NHãn khoa, NHẫn nại, NHĩ mục, NHiễm bệnh, NHũ mẫu, NHãn hiệu.
- Dẫn lực, Dĩ nhiên, Diễm lệ, Diễn đàn, Dũng cảm, Dưỡng dục, Dĩ vãng, Dã man.
- Vãn bối, Vãng lai, Vĩ đại, Viễn thị, Vĩnh viễn, Võ trang, Vũ trụ, Vĩ tuyến.
- Lãng mạn, Lãnh đạm, Lão ấu, Lẫm liệt, Lễ nghĩa, Lũng đoạn, thành Lũy, Lãng phí.
- Mã não, Mãi mại, Mãn nguyện, Mỹ Mãn, Mãnh hổ, Mẫn tiệp, Mẫu nghi, Mỹ nữ.
- Não tủy, Noãn sào, Nỗ lực, phụ Nữ.
- NGẫu nhiên, NGũ cốc, đội NGũ, ngôn NGữ.
- NGHĩa khí, NGHiễm nhiên, NGHĩa trang.
- NHã ý, NHãn khoa, NHẫn nại, NHĩ mục, NHiễm bệnh, NHũ mẫu, NHãn hiệu.
- Dẫn lực, Dĩ nhiên, Diễm lệ, Diễn đàn, Dũng cảm, Dưỡng dục, Dĩ vãng, Dã man.
- Vãn bối, Vãng lai, Vĩ đại, Viễn thị, Vĩnh viễn, Võ trang, Vũ trụ, Vĩ tuyến.
Xin đừng lộn tiếng Hán-Việt với
những tiếng Nôm sau đây:
- LẢ (lả lơi, ẻo lả); LẢNG (lảng
vảng); LẢNH (lảnh lót); LẢO (lảo đảo) LẨM (lẩm rẩm); LỂ (lể ốc, lể gai); LIỂM
(cờ bạc đặt tiền ở giữa hai ô, ra ô nào mình cũng trúng); LƯỞNG (lưởng thưởng);
- MẢ (mồ mả); MẢI (mải miết); MẢNH (mảnh mai); MẨN (mê mẩn); MẨU (mẩu chuyện);
- NẢO (viết thử trước); NỔ (nổ bùng);
- NGẢ (ngả quỵ); NGỦ (đi ngủ);
- NHẢ (nhả mồi, nhả tơ) NHẢN (nhan nhản); NHỈ (vui nhỉ!); NHỦ (khuyên nhủ);
- DẨN (dớ dẩn) DỈ (dỉ hơi);
- VẢNG (lảng vảng); VỈ (vỉ lò, vỉ bánh); VIỂN (viển vông) VỎ (vỏ ốc, vỏ sò).
- MẢ (mồ mả); MẢI (mải miết); MẢNH (mảnh mai); MẨN (mê mẩn); MẨU (mẩu chuyện);
- NẢO (viết thử trước); NỔ (nổ bùng);
- NGẢ (ngả quỵ); NGỦ (đi ngủ);
- NHẢ (nhả mồi, nhả tơ) NHẢN (nhan nhản); NHỈ (vui nhỉ!); NHỦ (khuyên nhủ);
- DẨN (dớ dẩn) DỈ (dỉ hơi);
- VẢNG (lảng vảng); VỈ (vỉ lò, vỉ bánh); VIỂN (viển vông) VỎ (vỏ ốc, vỏ sò).
d) Mấy phụ-âm khởi-đầu khác, gồm
có B, C, Đ, H, K, QU, và T, vì đều có ở cả hai bậc Thanh và Trọc, khó
phân biệt, nên phải tra tự điển; nhưng cũng theo luật "Thanh viết dấu HỎI,
Trọc viết dấu NGÃ".
Vì tiếng giọng Ngã ít hơn tiếng
giọng Hỏi nên chúng tôi biên ra dưới đây các tiếng Hán-Việt giọng Ngã của mấy
phụ-âm khởi đầu vừa nói trên, để giúp bạn đọc:
Bãi
|
:
|
thôi, nghỉ (bãi công, bãi
khóa, bãi thị)
|
Bão
|
:
|
ẵm bồng (hoài bão, bão hòa,
bão mãn)
|
Bĩ
|
:
|
xấu (bĩ cực thái lai, bĩ vận)
|
Cưỡng
|
:
|
gắng ép (cưỡng bách, cưỡng chế)
|
Cữu
|
:
|
cậu vua (quốc cữu), hòm (linh
cữu)
|
Đãi
|
:
|
thết, xử với (đãi bôi, bạc
đãi, biệt đãi, khoản đãi, trọng đãi, ưu đãi, đãi lịnh)
|
Đãng
|
:
|
rộng, phóng túng (đãng tử, du
đãng)
|
Đễ
|
:
|
kính nhường (hiếu đễ)
|
Điễn
|
:
|
điện (điễn khí, điễn học, điễn
lực)
|
Đỗ
|
:
|
họ Đỗ, chim đỗ quyên, cây đỗ
trọng
|
Hãi
|
:
|
kinh sợ (kinh hãi, hãi hùng, sợ
hãi)
|
Hãm
|
:
|
xông phá (hãm địch, hãm trận)
|
Hãn
|
:
|
mồ hôi (xuất hãn, phát hãn, liễm
hãn)
|
Hãnh
|
:
|
may mắn (hãnh diện, kiêu hãnh)
|
Hoãn
|
:
|
chậm (trì hoãn, hoãn đãi, hoãn
binh)
|
Hỗ
|
:
|
lẫn nhau (hỗ trợ, hỗ tương)
|
Hỗn
|
:
|
lộn xộn (hỗn chiến, hỗn loạn,
hỗn hợp)
|
Huyễn
|
:
|
hoa mắt (huyễn hoặc, huyễn mục)
|
Hữu
|
:
|
có (hữu cơ, hữu hạn, hữu dụng,
hữu lý)
|
Kỹ
|
:
|
tài năng (kỹ sư, kỹ thuật, kỹ
nghệ, kỹ xảo)
|
Quẫn
|
:
|
khốn đốn (quẫn bách, cùng quẫn)
|
Quỹ
|
:
|
tủ cất tiền (thủ quỹ, công quỹ,
ký quỹ)
|
Tễ
|
:
|
thuốc huờn (dược tễ, điều tễ,
thuốc tễ)
|
Tiễn
|
:
|
đưa (tiễn biệt, tiễn hành, tiễn
khách)
|
Tiễu
|
:
|
dẹp trừ (tiễu trừ, tuần tiễu,
tiễu phỉ)
|
Tĩnh
|
:
|
im lặng (tĩnh dưỡng, tĩnh mịch)
|
Tuẫn
|
:
|
liều chết (tuẫn tiết, tuẫn nạn)
|
Trãi
|
:
|
Nguyễn-Trãi
|
Trẫm
|
:
|
tiếng vua tự xưng
|
Trĩ
|
:
|
trẻ (ấu trĩ), bịnh trĩ (trĩ nội,
trĩ ngoại)
|
Trữ
|
:
|
chứa (lưu trữ, oa trữ, tàng trữ,
tích trữ)
|
CÁCH
NHỚ LUẬT HỎI NGÃ CHO TIẾNG HÁN-VIỆT
Xem vậy Luật viết dấu Hỏi Ngã
cho tiếng Hán-Việt khá phức tạp. Tuy nhiên ta có thể dùng mẹo để nhớ một cách dễ
dàng.
a) Chỉ cần nhớ những trường hợp
viết dấu Ngã trong tiếng Hán-Việt, tức là nhớ BẢY phụ âm đầu viết dấu Ngã và
khoảng 30 trường hợp ngoại lệ phải viết dấu Ngã.
Các trường hợp viết dấu hỏi
không cần nhớ vì các tiếng Hán-Việt có âm đầu khác hơn Bảy phụ âm nói trên đều
viết dấu hỏi.
b) Để nhớ Bảy Phụ-âm-đầu viết dấu
Ngã, các bạn học thuộc lòng câu sau đây:
Mình Nên NHớ Viết Là Dấu NGã
M-N-Nh-V-L-D-Ng
Như vậy là bạn đã nắm được luật
viết dấu Hỏi Ngã của tiếng Hán-Việt. Còn các ngoại lệ thì xin chịu khó học thuộc
lòng.
2 TIẾNG
NÔM
Tất cả những tiếng không phải là
tiếng Hán-Việt, được gọi chung là Tiếng Nôm.
PHÂN
BIỆT TIẾNG NÔM VÀ TIẾNG HÁN-VIỆT
1. Về ý nghĩa. Tiếng Nôm là
những tiếng nói sao hiểu vậy. Trái lại tiếng Hán-Việt thường có thể dịch ra bằng
một tiếng thông thường hơn (tiếng thông thường đó gọi là tiếng Nôm).
Ví dụ:
- tiếng Nôm: tập vở, tờ giấy (nói
sao hiểu vậy)
- tiếng Hán-Việt: bệnh viện (nhà thương), phi cơ (máy bay)
- tiếng Hán-Việt: bệnh viện (nhà thương), phi cơ (máy bay)
Tuy nhiên cũng có một số tiếng
Hán-Việt không thể dịch ra bằng một tiếng thông thường hơn. Ví dụ: kết quả,
hạnh phúc, thành công v.v...
Ngoài ra, nhiều tiếng Hán-Việt,
nhất là những tiếng đơn được dùng làm tiếng Nôm (gọi là Tiếng Nôm gốc
Hán Việt) vẫn giữ nguyên giọng đọc cũ. Ví dụ: danh, pháp, hải, lao,
lãnh v. v...
2. Nhờ quan sát Ngữ Pháp ta
sẽ phân biệt tiếng Hán-Việt và tiếng Nôm rất dễ dàng.
Ví dụ:
- LẠC CẢNH: lạc (hình
dung từ) làm rõ nghĩa tiếng cảnh (danh từ). Hình dung từ đứng trước
danh từ, tức là thuộc Ngữ-pháp đặt ngược. Vậy LẠC là tiếng Hán-Việt.
- TIỂU QUỐC: tiểu (hình
dung từ) làm rõ nghĩa tiếng quốc (danh từ). Hình dung từ đứng trước
danh từ, thuộc Ngữ-pháp đặt ngược. Vậy TIỂU là tiếng Hán-Việt.
- GẠCH TIỂU: tiểu làm
rõ nghĩa tiếng gạch. Hình dung từ tiểu đứng sau danh từ gạch, tức
thuộc Ngữ-pháp đặt xuôi.
Vậy tiểu nầy là TIẾNG
NÔM GỐC HÁN VIỆT.
3. Trong TIẾNG
ĐÔI thì:
- tiếng Nôm liên kết với tiếng
Nôm.
- tiếng Hán-Việt liên kết với tiếng Hán-Việt.
- tiếng Hán-Việt liên kết với tiếng Hán-Việt.
Ví dụ:
- LỖI LẦM: khi ta biết lỗi là
tiếng Nôm, thì ta có thể quả quyết lầm cũng là tiếng Nôm.
- TƯƠI TỐT: biết chắc tốt là tiếng Nôm, ta có thể quả quyết rằng tươi cũng là tiếng Nôm.
- HỌA SĨ: biết chắc sĩ là tiếng Hán-Việt, ta có thể quả quyết rằng họa là tiếng Hán-Việt.
- LUẬT SƯ: khi biết sư là tiếng Hán-Việt thì ta có thể quả quyết luật cũng là tiếng Hán-Việt.
- TƯƠI TỐT: biết chắc tốt là tiếng Nôm, ta có thể quả quyết rằng tươi cũng là tiếng Nôm.
- HỌA SĨ: biết chắc sĩ là tiếng Hán-Việt, ta có thể quả quyết rằng họa là tiếng Hán-Việt.
- LUẬT SƯ: khi biết sư là tiếng Hán-Việt thì ta có thể quả quyết luật cũng là tiếng Hán-Việt.
Cũng có một số tiếng-đôi hợp
thành bởi một tiếng Nôm và một tiếng Hán-Việt. Tuy nhiên đó là trường hợp đặc
biệt của những tiếng Hán-Việt đã được dùng đơn độc làm tiếng Nôm. Chỉ có những
tiếng Hán-Việt ấy mới có thể liên kết với tiếng Nôm để tạo thành tiếng-ghép. Ví
dụ:
- máu huyết: huyết là
tiếng Hán-Việt có nghĩa "máu". Tiếng huyết cũng được dùng đơn độc làm
tiếng Nôm, như: cháo huyết, huyết heo.
- lý lẽ: lý là tiếng
Hán-Việt có nghĩa "lẽ", nhưng cũng được dùng đơn độc làm tiếng Nôm,
như: lời nói có lý, không có lý nào.
- ưa thích: thích là
tiếng Hán-Việt được dùng đơn độc làm tiếng Nôm.
TIẾNG
NÔM GỐC HÁN-VIỆT
Dấu giọng của những Tiếng-Nôm
Chuyển gốc từ tiếng Hán-Việt, phải theo dấu giọng của tiếng gốc, nghĩa là:
a) khi tiếng HÁN GỐC là một tiếng Không
dấu hoặc dấu Sắc hoặc dấu Hỏi, thì Tiếng Nôm có Gốc
Hán-Việt viết dấu Hỏi. (KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI)
hô > thở; tu > sửa;
giá > gả (con); giả > kẻ
b) khi tiếng HÁN GỐC là tiếng dấu
Huyền hoặc dấu Nặng hoặc dấu Ngã thì Tiếng-Nôm có Gốc
Hán-Việt viết dấu Ngã. (HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ)
hàng > hãng (buôn);
kỵ > cỡi; dĩ > đã
TRỪ ngoại lệ:
lý > lẽ; miếu
> miễu; nỗ > (cung) nỏ; ngưỡng > ngẩng (ngửng,
ngửa), nhĩ > nhử (mồi); dụ > rủ(rê)...
TIẾNG
NÔM KHÔNG GỐC HÁN VIỆT
Những Tiếng-nôm không chuyển gốc
từ tiếng Hán-Việt thì gọi là TIẾNG-NÔM-LÕI. Có hai loại Nôm-Lõi: Tiếng-Đơn và
Tiếng-Đôi.
A.
TIẾNG NÔM ĐƠN
Những Tiếng Nôm Đơn, trại
ra từ một tiếng khác (không phải là tiếng HÁN), đều tùy tiếng chánh mà viết Hỏi
hay Ngã theo luật:
KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI
HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ
HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ
Không dấu chuyển ra Hỏi và
ngược lại như:
cản/can; chăng/chẳng; chửa/chưa;
không/khổng quẳng/quăng; nhủi/chui;
Sắc chuyển ra Hỏi và
ngược lại
búa/bửa; thế/thể; hả/há; lén/lẻn;
rải/rưới;
Hỏi chuyển ra Hỏi
bảo/biểu; cổi/cởi; tỏa/tủa; xẻ/chẻ;
nhỉ/rỉ;
tủi lòng/mủi lòng; rủ/xủ; quên lảng/quên lửng;
tủi lòng/mủi lòng; rủ/xủ; quên lảng/quên lửng;
Huyền chuyển
ra Ngã và ngược lại như:
cùng/cũng; dầu/dẫu; đã/đà; cỗi/còi;
lãi/lời; bõ/bù; giũa/giồi; mõm/mồm; ngỡ/ngờ;
Nặng chuyển
ra Ngã và ngược lại như:
cội/cỗi; đậu/đỗ; chõi/chọi; giẵm/giậm;
trĩu/trịu; chậm/chẫm (chẫm rãi);
Ngã chuyển ra Ngã:
đĩa/dĩa; hẵng/hãy; khẽ/sẽ; nỗi/đỗi;
ngẫm/gẫm; dõi/rõi; giễu/riễu; ruỗng/rỗng
TRỪ ngoại
lệ:
gõ/khỏ; hõm/(sâu) hóm; kẻ/gã; rải/vãi;
mặn/mẳn; (thuộc) lảu/làu; (mệt) lử/(đói) luỗi; phồng/phổng; ngõ/ngả; quãng/khoảng;
rõ/tỏ; trội/trổi; lõm/lóm.
B. TIẾNG
NÔM ĐÔI
Bởi tánh cách ĐỘC VẬN
(mono-syllabic) ngắn ngủn, nên tiếng Việt thường hợp thành Tiếng-Đôi để cho dịu
giọng.
TIẾNG NÔM ĐÔI khác hơn TIẾNG
GHÉP (là tiếng HÁN-VIỆT do hai hoặc ba tiếng có nghĩa riêng ghép lại để chỉ một
ý niệm mới).
TIẾNG NÔM ĐÔI là Tiếng-nôm do
hai hoặc nhiều tiếng hiệp lại để cho rõ ý, hoặc dịu giọng.
* Có loại Tiếng Nôm Đôi do Hai
tiếng đều có nghĩa hợp lại mà thành.
* Có loại Tiếng Nôm Đôi khác, gọi
là Tiếng Đôi LẤP-LÁY, do một tiếng có nghĩa hợp với một tiếng không nghĩa; hoặc
do hai tiếng không nghĩa hợp lại nhưng giọng nghe hài hoà, thuận tai, dễ đọc.
Tiếng Nôm Đôi mà CẢ HAI TIẾNG ĐỀU
CÓ NGHĨA THÌ KHÔNG THEO LUẬT TRẦM BỔNG mà mỗi tiếng giữ chánh tả riêng của nó về
Âm về Vần (Vận) cũng như về Giọng (Thinh).
Ví dụ: mồ mả; cú rũ; rỗi rảnh;
bàn ghế; bồng ẵm; cổi gỡ; chống chõi; đầy đủ; lỡ dở; mỏi mệt; ủ rũ; sàng sảy;
sâu xa; trồng tỉa; siêng năng; tìm kiếm; kiêng cữ; tỏ rõ; lú lẫn...
Tiếng Nôm Đôi còn chia thành hai
loại: Tiếng Nôm Đôi Liên Hiệp và Tiếng Nôm Đôi Độc lập.
Tiếng Nôm Đôi Độc Lập là tiếng
đôi mà hai tiếng đều có nghĩa và bình đẳng: thôn xóm, tốt tươi.
Tiếng Nôm Đôi Liên Hiệp là tiếng đôi mà nghĩa của hai tiếng phụ thuộc lẫn nhau để làm cho rõ thêm nghĩa: cà chua, máy cày, xe đạp.
C.
TIẾNG NÔM ĐÔI LẤP LÁY
Tiếng Nôm Đôi Lấp Láy là những
Tiếng-đôi gồm hai tiếng có liên hệ với nhau về âm thanh mà trong đó phải có ít
nhất là một tiếng không có nghĩa.
Ví dụ: đẹp đẽ, mới mẻ, lạnh
lùng, vội vàng, v. v... những tiếng đẽ, mẻ, lùng, vàng, đều không có
nghĩa. Sự phân biệt tiếng có nghĩa và tiếng không có nghĩa giúp ta nhận ra Tiếng-đôi
Lấp-láy dễ dàng.
1. Các mối liên hệ về âm trong
Tiếng Đôi Lấp Láy:
a) Liên hệ ở phụ âm đầu. Có
những Tiếng Đôi chỉ láy lại phụ-âm đầu: (m-m) mát mẻ, (đ-đ) đồn đãi,
(l-l) lểnh lảng, (n-n) nói năng.
b) Liên hệ về vần. Có những
Tiếng Đôi chỉ có phần vần được láy lại: lai rai, lải nhải, lạng chạng, lằm
bằm, lẫm đẫm, lễ mễ, lơ thơ.
c) Liên hệ cả phụ-âm đầu lẫn vần. Có
những Tiếng Đôi láy lại cả phụ-âm đầu lẫn vần như: cào cào, ba ba, bươm bướm,
rầm rầm, châu chấu, khinh khỉnh.
Do đó, khi nói về Tiếng Đôi Lấp
Láy ta cần chú ý đến sự liên hệ của phụ-âm đầu và vần.
2.
Liên hệ về giọng điệu.
a) Cùng một giọng điệu với nhau.
lui cui, lung tung (không dấu)
chí chóe, chíu chít (dấu sắc)
lỏng chỏng, thỉnh thoảng (dấu hỏi)
lễ mễ, dễ dãi (dấu ngã)
chí chóe, chíu chít (dấu sắc)
lỏng chỏng, thỉnh thoảng (dấu hỏi)
lễ mễ, dễ dãi (dấu ngã)
b) Cùng một nhóm giọng với nhau.
Tiếng Việt được chia thành hai
nhóm giọng:
Nhóm giọng cao gọi là giọng Bổng
Nhóm giọng thấp gọi là giọng Trầm.
Nhóm giọng thấp gọi là giọng Trầm.
Nhóm cao (Bổng), gồm có các giọng: Ngang (còn
gọi là Không), Sắc, và Hỏi.
Nhóm thấp (Trầm), gồm có các giọng: Huyền,
Nặng, và Ngã.
Trong Tiếng Đôi Lấp Láy, giọng của
hai tiếng bao giờ cũng thuộc cùng một nhóm. Nếu một tiếng của Tiếng Đôi Lấp Láy
có giọng cao thì giọng của tiếng kia cũng thuộc nhóm giọng cao.
Ví dụ: vui vẻ, mới mẻ, lửng
lơ, nho nhỏ...
Ngược lại nếu một tiếng của Tiếng
Đôi Lấp Láy có giọng thấp thì tiếng kia cũng có giọng thấp, ví dụ: mạnh mẽ,
đẹp đẽ, ngại ngùng, lạnh lùng...
Qui luật về giọng-điệu giữa các
tiếng trong Tiếng Đôi Lấp Láy gọi là Qui luật Thuận-thinh-âm (cũng
còn gọi là Luật Trầm Bổng).
Tóm lại, TIẾNG ĐÔI LẤP LÁY bỏ dấu
theo luật Trầm Bổng:
KHÔNG, SẮC, HỎI đi với HỎI
HUYỀN, NẶNG, NGÃ đi với NGÃ
HUYỀN, NẶNG, NGÃ đi với NGÃ
Tiếng đầu Không dấu hoặc
dấu Sắc hoặc dấu Hỏi thì tiếng sau phải bỏ dấu HỎI.
Tiếng đầu dấu Huyền hoặc
dấu Nặng hoặc dấu Ngã thì tiếng sau phải bỏ dấu NGÃ.
Thí dụ:
BỔNG
Không dấu đi chung với HỎI và
ngược lại: nghỉ ngơi, bảnh bao, lẻ loi, hăm hở, thong thả, sởn sơ, viển
vông, run rẩy, vẻ vang, vui vẻ.
Sắc đi chung với HỎI và
ngược lại: mải miết, nhắc nhở, thẳng thớm, dí dỏm, bóng bảy, chải chuốt,
khỏe khoắn, nhảm nhí, mắt mỏ.
Hỏi đi chung với HỎI: hể
hả, lỏng lẻo, nhỏng nhẻo, thỏ thẻ, bải hoải, mỏng mảnh, thỉnh thoảng, tỉ mỉ, xửng
vửng.
TRẦM:
Huyền đi chung với NGÃ và
ngược lại: vỗ về, rầu rĩ, tầm tã, não nề, đãi đằng, nòng nã, sẵn sàng, kỹ
càng, chẵn chòi, lời lãi...
Nặng đi chung với NGÃ và
ngược lại: gỡ gạc, vội vã, dữ dội, cặn kẽ, não nuột, lạt lẽo, cãi cọ, lũ
lượt, đẹp đẽ, chập chững, gãy gọn...
Ngã đi chung với NGÃ: dễ
dãi, lỗ lã, cãi lẫy, mãi mãi, kỹ lưỡng,...
Như vậy, theo luật nầy thì khi gặp
Tiếng Đôi Lấp Láy như: bẽ bàng, rõ ràng, vững vàng, chúng ta yên tâm viết bẽ,
rõ, vững với dấu ngã vì các chữ bàng, ràng, vàng, đã có dấu huyền.
Đối với Tiếng Đôi Lấp Láy
như cãi cọ, chập chững, dọ dẫm, đẹp đẽ, chúng ta viết cãi,
chững, dẫm, đẽ, với dấu ngã vì các chữ cọ, chập, dọ, đẹp, là những chữ
đã viết dấu nặng.
Đối với Tiếng Đôi Lấp Láy
như lỗ lã, dễ dãi vì ta đã biết dễ và lỗ viết dấu
ngã (do suy biết từ lỗ lời, dễ dàng) thì theo luật nầy ta biết chắc lã và dễ phải
viết dấu ngã.
Khi một chữ của Tiếng Đôi Lấp
Láy viết dấu sắc, không dấu, hoặc dấu hỏi, thì chữ kia phải viết dấu hỏi chớ
không thể viết dấu ngã.
Ví dụ:
- cứng cỏi, trống trải, trắng
trẻo vì đã có các chữ cứng, trống, trắng viết dấu sắc nên các chữ cỏi, trải,
trẻo phải viết dấu hỏi.
- trong trẻo, bươn chải, trả
treo vì các chữ trong, bươn, treo viết không dấu nên các chữ trẻo,chải,
trả phải viết dấu hỏi.
- các Tiếng Đôi Lấp Láy
như lẩm bẩm, lủng củng, bỏm bẻm cũng vậy, vì các chữ lẩm, lủng,
bỏm, mang dấu hỏi, thì chữ đứng sau phải viết dấu hỏi.
CÁCH
NHẬN RA TIẾNG ĐÔI LẤP LÁY
Khi hai tiếng của một từ
mà hai phụ âm đầu của hai tiếng ấy giống nhau, hoặc cả âm đầu lẫn
vầnđều giống nhau (cùng giọng Bổng cả, hoặc cùng giọng Trầm cả), thì
đó là Tiếng Đôi Lấp Láy.
DỰA VÀO NGHĨA: Một Tiếng Đôi
mà cả hai tiếng đều có nghĩa, thì Tiếng Đôi đó KHÔNG PHẢI là Tiếng
Đôi Lấp Láy.
ĐẢO NGƯỢC TRẬT TỰ: Khi đảo ngược
trật tự của một tiếng-đôi mà tiếng-đôi đó vẫn còn y nghĩa như khi
chưa bị đảo trật tự, thì tiếng đó là tiếng ghép chớ KHÔNG PHẢI là Tiếng
Đôi Lấp Láy.
Ví dụ: giữ gìn, lả lơi, lơ
lửng, hờ hững, là tiếng ghép chớ không phải là Tiếng Đôi Lấp Láy, vì khi đảo
ngược, nó vẫn giữ nghĩa như trước. (gìn giữ, lơi lả, lửng lơ, hững hờ).
TIẾNG ĐÔI BỎ BỚT MỘT DẤU GIỌNG: Có
nhiều Tiếng-Đôi vì muốn cho êm tai nên
1) phải bỏ bớt một dấu giọng. Mấy
tiếng mất dấu giọng đó là tiếng chánh lập lại, chớ không phải tiếng đệm,
nên những tiếng đôi đó không bỏ dấu theo luật Trầm Bổng. Thí dụ: khe
khẽ, là khẽ khẽ; dê dễ là dễ dễ; đăng đẵng là đằng
đẵng.
2) Có nhiều Tiếng-Đôi bị đổi giọng,
như hẳn hoi trở thành hẳn hòi; kỹ càng trở
thành kỹ cang.
Ngoài ra, NHỮNG TIẾNG NÓI TẮT do
ghép với tiếng ẤY, đều viết dấu Hỏi. (Nói Tắt là nói thúc hai chữ thành một,
theo lối giản ước). Ví dụ như:
anh + ấy = ảnh; bà + ấy
= bả; cậu + ấy = cẩu; chị + ấy = chỉ; hôm + ấy = hổm; mợ + ấy
= mở; năm + ấy = nẳm; thằng cha + ấy = thằng chả; con mẹ ấy =
con mẻ
NHỮNG
NGOẠI LỆ CỦA TIẾNG-ĐÔI (Không
còn theo luật Trầm Bổng)
bền bỉ, chàng hảng, chèo bẻo,
dòm dỏ, ẻo ẹo, giãy nảy, hoài hủy, hẳn hòi, ĩnh ương, khe khẽ, lảng xẹt, lý lẽ,
luồn lỏi, lẳng lặng, mình mẩy, se sẽ, mủ mĩ, niềm nở, ngoan ngoãn, nhểu nhão,
phỉnh phờ, rẻ rề, rỗng tuếch, sành sỏi, sừng sỏ, sửng sờ, thỏng thừa, thung
lũng, trễ nải, trọi lỏi, trơ trẽn, ve vãn, vỏn vẹn, xảnh xẹ.
MUỐN BIẾT PHẢI BỎ DẤU GÌ?
1) Cách lẹ nhất là thử tìm
một Tiếng Đôi khác, có cái chữ mình đang phân vân về dấu hỏi hay ngã.
Ví dụ chữ dễ dãi: Chỉ
cần biết được một trong hai chữ dễ hoặc dãi mang dấu gì thì
biết được luôn cả dấu của chữ kia. Thử chọn chữ dễ trước. Với chữ dễ ta
có Tiếng đôi Lấp-láy dễ dàng. Với dễ dàng ta biết chữ dễ phải
viết dấu ngã vì chữ dàng có dấu huyền. Khi đã biết chữ dễ viết
dấu ngã thì ta xác định được là chữ dãi phải viết dấu ngã
do luật "HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ"
Đối với các chữ mang dấu Hỏi
cũng làm như vậy.
2) Khi không tìm ra một Tiếng-đôi
Lấp-láy trong đó có chữ mà ta cần biết là mang dấu gì thì ta nên thử đưa
nó vào loại chữ-láy bốn tiếng.
Ví dụ chữ đủng đỉnh: Ta
có đủng đa đủng đỉnh, về lủng lẳng ta có lủng la lủng
lẳng. Khi ta thấy đủng đa, lủng la, thì ta có thể khẳng định đủng
và lủng phải viết dấu hỏi theo luật "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI". Khi đã
biết đủng và lủng phải viết dấu hỏi rồi thì ta biết được đỉnh và lẳng củng
phải viết dấu hỏi theo luật Trầm Bổng "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI".
3) Đối với Tiếng-Nôm-đơn, và
Chữ-ghép.
Khi gặp tiếng Nôm-đơn hoặc một
tiếng trong các Chữ-ghép mà ta phân vân về dấu hỏi ngã, thì ta tìm một Tiếng-đôi
Lấp-láy có tiếng đó, rồi áp dụng luật đễ tìm dấu hỏi hay ngã.
Ví dụ 1: ta gặp các chữ: nghỉ,
nghĩ, dở, dễ, khoẻ... Ta tìm xem các chữ nầy viết hỏi hay ngã. Ta xem tiếng Lấp-láy
phải viết dấu gì?
nghỉ: nghỉ ngơi --> dấu hỏi
nghĩ: nghĩ ngợi --> dấu ngã
dở: dở dang --> dấu hỏi
dễ: dễ dàng --> dấu ngã
khoẻ: khoẻ khoắn --> dấu hỏi
nghĩ: nghĩ ngợi --> dấu ngã
dở: dở dang --> dấu hỏi
dễ: dễ dàng --> dấu ngã
khoẻ: khoẻ khoắn --> dấu hỏi
Ví dụ 2: như gặp chữ sửa chữa, không
biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã, thì ta tách chữ đó ra để mà tìm.
Ta sẽ có Tiếng-đôi sửa
sang. Khi đã có sửa sang thì ta yên tâm viết sửa với dấu
hỏi vì "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI".
Đến chữ chữa thì ta biết chữa là
Tiếng-nôm có Gốc-Hán-việt là chữ Trị, vậy phải viết dấu ngã, vì
"HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ".
Ví dụ 3: gặp chữ ủ
rũ, không biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã, thì ta cũng tách chữ đó
ra, rồi tìm cách đưa thành một Tiếng-đôi Lấp-láy.
Ta sẽ có ủ ê. Khi đã
có ủ ê thì ta yên tâm viết ủ với dấu hỏi, vì ê là
chữ không dấu, theo luật "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI"
Đến chữ rũ thì ta có
Tiếng-đôi Lấp-láy rũ rượi nên ta biết là rũ phải viết dấu
ngã vì rượi là chữ có dấu nặng, theo luật "HUYỀN, NẶNG, NGÃ =
NGÃ"
CHÚ Ý: Khi tạo Tiếng-đôi Lấp-láy
để dựa vào đó mà xác định dấu hỏi ngã, ta cần chọn Tiếng-đôi Lấp-láy sao cho
nghĩa của Tiếng-đôi đó, khi tách ra một mình, phải cùng nghĩa với chữ mình đang
muốn tìm dấu.
Thí dụ: dễ (dễ làm)
và dễ trong Tiếng-đôi Lấp-láy dễ dàng, dễ ợt, cùng có nghĩa
giống nhau.
Nếu tìm được một Tiếng-đôi Lấp-láy
hay không Lấp-láy nhưng chữ trong tiếng đó lại khác nghĩa với nghĩa của chữ
mình đang tìm dấu thì không thể dùng được. Chẳng hạn
như rũ trong ủ rũ mà ta lại dùng chữ rủ của rủ
rê, rủ ren thì không cùng nghĩa cho nên ta sẽ viết sai dấu ngay.
CÓ NÊN ĐƯA “CHẢNH”, “NỔ”
VÀO TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT
VÀO TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT
Giới trẻ với đặc trưng cố hữu là
năng động, nhanh nhạy, ham thích cái mới cũng đang góp phần làm phong phú thêm
tiếng Việt qua cách sử dụng từ ngữ một cách sáng tạo, linh hoạt trong những ngữ
cảnh cụ thể.
Thời gian gần đây, trên các diễn
đàn truyền thông và các hội thảo khoa học có nhiều ý kiến cho rằng tiếng Việt
ngày càng mất chuẩn, sai chuẩn, đang bị “vẩn đục” và kêu gọi mọi người tìm
cách, hiến kế để “cứu” tiếng Việt.
Nhiều nhà chuyên môn cũng lên tiếng
cảnh báo hiện tượng dùng từ tiếng Việt tùy tiện, làm méo mó, lệch chuẩn tiếng
Việt với những từ ngữ như: máu, sung, vãi, lộ hàng, tự sướng...
Thậm chí có nhà chuyên môn còn
cho rằng tiếng Việt đang trong tình trạng “đáng báo động về việc giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt”, và quy kết một trong những nguyên nhân là do “giới
trẻ”, “ngôn ngữ tuổi teen”...
Hàng
loạt từ mới đã xuất hiện
Quả nhiên, hiện nay tình trạng sử
dụng tiếng Việt một cách tùy tiện - đặc biệt là trong một bộ phận giới trẻ - là
không thể chối cãi, phủ nhận.
Tuy nhiên, theo tôi, giới trẻ với
đặc trưng cố hữu là năng động, nhanh nhạy, ham thích cái mới cũng đang góp phần
làm phong phú thêm tiếng Việt qua cách sử dụng từ ngữ một cách sáng tạo, linh
hoạt trong những ngữ cảnh cụ thể.
Và sẽ thật là bất công nếu chúng
ta cứ khăng khăng phiến diện, khe khắt nhìn nhận giới trẻ chỉ ở góc độ là “thủ
phạm” làm “vẩn đục” tiếng mẹ đẻ, mà không hề nhìn thấy những đóng góp của họ
trong việc đang từng ngày làm giàu đẹp thêm tiếng Việt.
Nhiều từ ngữ được giới trẻ dùng
với nét nghĩa mới hết sức thú vị, độc đáo, nên chăng cần phải ghi nhận, xem xét
bổ sung vào từ vựng tiếng Việt?
Một số từ ngữ tuy mới xuất hiện
trong thời gian ngắn, nhưng tần số sử dụng tăng vọt đến kinh ngạc, không chỉ hạn
hẹp trong phạm vi giới trẻ, mà lan tỏa đến mọi giới trong xã hội, hầu như không
mấy ai là không hiểu theo nét nghĩa chuyển mới định hình ấy.
Chẳng hạn như từ “teens” khi gia
nhập vào vốn từ tiếng Việt thì đều được hiểu nghĩa rộng hơn, chỉ chung cho cả
giới trẻ chứ không hạn định như nghĩa nguyên gốc trong tiếng Anh là tuổi thanh
thiếu niên, tuổi thanh xuân (từ 13 - 19) tuổi.
“Nổ”, “bệnh nổ” với nghĩa là nói
khoác, khoe khoang dối trá, ba xạo, khoe mẽ, thậm xưng về những cái mình không
có.
Hay từ “chảnh” - tự phụ, kênh kiệu,
kiêu căng, cho mình là hơn người, coi thường người khác. Đi kèm theo từ “chảnh”
còn có “chảnh chó” (nghĩa phê phán, tiêu cực), “sang chảnh” (nghĩa khen ngợi,
tích cực).
Ngoài ra còn nhiều từ ngữ khác
được dùng với nghĩa mới, có liên quan hoặc hoàn toàn thoát ly với nghĩa gốc của
từ/ yếu tố tạo từ như: “sống ảo” - khoe khoang (đồ vật, nhan sắc, cuộc sống...)
thái quá trên mạng internet, trong khi thực tế hoàn toàn không phải như vậy, thậm
chí còn ngược lại.
“Sửu nhi” (trẻ trâu) là một từ
Hán – Việt, chỉ người có tính cách trẻ con, thiếu chín chắn, thích thể hiện ra
vẻ người lớn, hành động thái quá, đôi khi là lố bịch… trước một hoàn cảnh, sự vật
– hiện tượng nào đó.
“Bá đạo” là một từ Hán – Việt
mang ý nghĩa: không có đối thủ, không ai sánh bằng (bá chủ một vùng).
“Ném đá” là hành động gay gắt, kịch
liệt phản đối một người, một vấn đề hay một hành động nào đó với thái độ bất
bình, bức xúc cao độ, hoặc chỉ sự đả kích tập thể vào một đối tượng cụ thể, có
những hành động làm trái ý, chướng mắt (thông thường là ở trên mạng) bằng cách
nói móc mỉa, miệt thị, chửi bới.
“Chém gió” chỉ cách nói chuyện
huyên thuyên, phét lác, nói không có cơ sở, mục đích mua vui cho mọi người hoặc
nhằm cường điệu một sự việc nào đó (Có ý kiến cho rằng xuất phát từ hình ảnh
người nói thường kèm hành động tay vung lên, chém xuống theo nhịp điệu lời nói,
như là chém trong không khí.).
Từ “tám” hay tổ hợp “bà tám” để
chỉ việc tán gẫu kéo dài, chỉ người nhiều chuyện, lắm lời.
“Gấu” (người yêu), “diễn/ diễn
sâu” (đóng kịch một cách giả tạo, làm ra vẻ tựa như người thật, việc thật), “của
chùa” (đồ vật, của cải không phải của mình, nên dùng tự nhiên, thoải mái, không
biết tiếc, không có trách nhiệm), “chặt chém/ chặt đẹp/ chém đẹp” (bán giá quá
đắt, bán với giá cắt cổ), “bèo” (giá cả quá rẻ, quá thấp, ví như bèo, hàm ý coi
thường), “cháy chợ” (chợ hết sạch loại hàng nào đó, không còn để bán ra trong
khi còn nhiều người muốn mua)…
Nên
công bằng với giới trẻ
Những từ ngữ với cách hiểu sáng
tạo, cách chuyển nghĩa phong phú dựa vào nhiều biện pháp tu từ như ẩn dụ, hoán
dụ, thậm xưng... mà giới trẻ đang sử dụng nêu trên, hiện có thể đang là từ tiếng
lóng được sử dụng phổ biến chỉ trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (khẩu ngữ).
Nhưng tôi tin chắc rằng - theo
quy luật tiếp biến và đào thải tất yếu của mọi ngôn ngữ - qua quá trình sàng lọc
của thời gian, chắc chắn sẽ có nhiều từ đang dần từng bước gia nhập một cách tự
nhiên vào vốn từ của chúng ta, tham gia vào các phong cách chức năng ngôn ngữ
khác (đặc biệt là phong cách ngôn ngữ nghệ thuật), góp phần phát triển từ vựng
tiếng Việt.
Cho nên, để cho thỏa đáng, xã hội
và giới chuyên môn bên cạnh việc phê phán, cảnh báo những từ ngữ/ cách dùng từ
theo nghĩa chuyển có tính dung tục, phản cảm, làm méo mó tiếng Việt…, cũng nên
nhìn nhận giới trẻ nước nhà ngày nay dưới góc độ là một trong những nhân tố
đang ngày ngày góp phần làm đẹp giàu thêm tiếng Việt.
Họ đang trên hành trình tiếp cận
với lời nhắn nhủ, kỳ vọng của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam - trong một Hội thảo
khoa học Quốc gia về tiếng Việt trong thời gian gần đây: “Giữ gìn sự trong sáng
đi đôi với phát triển, làm mới tiếng Việt. Tuy nhiên, sự tiếp thu phải có chọn
lọc và không đánh mất bản sắc”.
ThS. Đỗ Thành Dương
Nhận xét
Đăng nhận xét