TIẾNG VIỆT MƯỢN TỪ TIẾNG ANH
TIẾNG VIỆT
MƯỢN TỪ TIẾNG ANH
Sau khi bàn về tiếng
Tàu, tiếng Pháp, chúng ta chuyển sang tiếng Anh và bước vào một nền văn hóa đã
có những ảnh hưởng “tốt” cũng như “xấu” vào đời sống của người Việt trong khoảng
30 năm chiến tranh vừa qua. Có người gọi cuộc chiến vừa qua là “nội chiến” giữa
hai miền Nam-Bắc nhưng, theo báo chí phương Tây, đó là “cuộc chiến tranh Việt
Nam”hay nói một cách khác là “cuộc đối đầu giữa hai phe”, một bên là Tự do gồm
Việt Nam Cộng hòa, Mỹ và 5 nước Đồng minh (gồm Australia, New Zealand, Đại Hàn,
Thái Lan và Philipin) và một bên là Cộng Sản gồm Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa,
Liên Xô và Trung Quốc.
Tinh thần của bài viết
này không bàn đến việc “đúng” hay “sai” của cuộc chiến mà chỉ xoáy quanh những ảnh
hưởng của nền văn hóa Mỹ đối với ngôn ngữ Việt trong suốt 30 năm chiến tranh.
Nước Mỹ còn được gọi là Hoa Kỳ hay Huê Kỳ (cờ hoa). Danh xưng này đã xuất hiện
trong văn chương Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ 19 qua thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ”. Vũ
Trọng Phụng trong Vỡ đê, xuất bản năm 1936, có đoạn viết: “…Dung tìm bao diêm ở
ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn dầu xăng. Nhìn ra
sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi…”.
Nguyễn Công Hoan trong
Nhớ và ghi về Hà Nội giải thích:
“…Đèn Hoa Kỳ là đèn của
bọn Mỹ sang ta buôn dầu hoả. Muốn bán được dầu hoả, nó phải làm đèn cho người
mua dầu dùng (…). Dầu của Mỹ, viết tắt là Socony (Standard Oil Company of New
York), cạnh tranh với dầu của Anh viết tắt là Shell. Bất cứ ở thành thị hay
nông thôn, hễ có đại lý dầu Mỹ, là ở gần đó, có ngay đại lý dầu Anh. Và trái lại.
Nhà bán dầu Mỹ có biển sơn màu vàng, nhà bán dầu Anh có biển sơn màu đỏ. Những
nơi bán dầu xăng ô tô, Anh Mỹ cũng cạnh tranh như vậy. Ở Hà Nội, còn có xe dầu
đi bán ở phố, cũng sơn màu của hãng… Trụ sở của Ủy ban Khoa học Kỹ thuật ở phố
Trần Hưng Đạo, số 39, là trụ sở cũ của hãng dầu Shell của Anh, nên quét vôi màu
đỏ. Ngày trước ta gọi là nhà dầu Shell (…).
Royal Dutch Shell (người
bình dân gọi là hãng dầu “con sò”) đã thực hiện một chiến dịch quảng cáo ngoạn
mục là “biếu không” đèn Hoa Kỳ cho người Việt vốn chỉ quen dùng dầu lạc hay nến
(bạch lạp) để thắp sáng mà không quen dùng dầu hỏa. Dĩ nhiên, khi đèn Hoa Kỳ đi
vào đời sống của người Việt thì cũng là lúc mọi người làm quen với việc dùng dầu
hỏa để đốt đèn.
Nhãn hiệu Shell lần đầu
tiên xuất hiện vào năm 1891 qua logo “con sò” trên thùng dầu hỏa mà Marcus
Samuel và các cộng sự chuyển đến vùng Viễn Đông. Nhất Thanh trong Đất lề quen
thói (1968) giải thích thêm: “Cuối thế kỷ XIX người Tây đem dầu lửa, cũng gọi dầu
hôi, vào dùng và bán (…). Hãng bán dầu đã chế ra thứ đèn nhỏ, ngọn lửa vừa bằng
ngọn đèn dầu chay, đèn được cho không kèm theo mỗi thùng dầu bán ra, để làm quảng
cáo; không rõ lúc ấy dầu lửa từ xứ nào nhập cảng, mà cái đèn kia được gọi là
đèn Hoa-kỳ; ngày nay tại nhiều nhà nó vẫn là bạn cố tri bên cạnh cái điếu thuốc
lào”.
Như vậy, thuật ngữ
“đèn Hoa Kỳ” (còn gọi là đèn “hột vịt” tại miền Nam), đốt bằng dầu hỏa (còn gọi
là dầu lửa hay dầu hôi), đã xuất hiện từ rất lâu, trước khi có cuộc Chiến tranh
Việt Nam. Người ta còn dùng từ ngữ dầu Tây để gọi dầu hỏa khi mới du nhập vào
Việt Nam. Ngày xưa, loại dầu này được đựng trong thùng sắt tây như trong bức
tranh Bán dầu Tây của Henri Oger năm 1909 (1). Loại thùng sắt này sau khi đựng
dầu được tái chế thành thùng gánh nước hoặc cắt ra làm các vật dụng khác như đồ
chơi cho trẻ em bằng thiếc.
Một trường hợp tiếng
Anh khác đã du nhập vào Việt Nam từ lâu là trò chơi của trẻ con: “Oẳn tù tì” dịch
từ “One, Two, Three”. Hầu như mọi người Việt đều đã từng ra cái búa, cái kéo hoặc
cái bao sau khi đọc câu “Oẳn tù tì. Ra cái gì? Ra cái này!”. Hai người chơi và
có một trong 3 lựa chọn, cái búa thì đập cái kéo, cái kéo thì cắt cái bao và
cái bao lại bao được cái búa. Về mặt giáo dục, tiếng Anh du nhập miền Nam qua
hai thời kỳ, dưới hai dạng ngôn ngữ: tiếng Anh của người Anh (British English)
và tiếng Anh của người Mỹ (American English). Thời Đệ nhất Cộng hòa
(1955-1963), tiếng Anh song song với tiếng Pháp, được chọn làm sinh ngữ chính
và phụ, tùy theo sự lựa chọn của học sinh từ bậc Trung học (lớp Đệ thất trở
lên). Tài liệu giảng dạy tiếng Anh vẫn lệ thuộc vào chương trình của người Pháp
nên chịu ảnh hưởng của British English (còn gọi là Ăng-lê – Anglais). Một trong
những sách học tiếng Anh phổ biến trong thời kỳ này là bộ L’Anglais Vivant của
nhà xuất bản Hachette (Pháp).
Đệ nhị Cộng hòa
(1963-1975) là thời thịnh hành của American English tại miền Nam. Điều này cũng
dễ hiểu vì sự có mặt của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ngôn ngữ
Sài Gòn xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của tiếng Mỹ trong thời kỳ này và có những
vay mượn rất lý thú. OK (okay) có lẽ là một từ nổi bật nhất trong tiếng Mỹ được
sử dụng rộng rãi tại miền Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Một số người cho
rằng từ này bắt nguồn này bộ tộc da đỏ Choctaws ở Châu Mỹ. Chữ “okeh” của người
Choctaw có nghĩa tương tự như từ OK của người Mỹ. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều tranh
cãi về thuật ngữ này. Theo chuyên gia ngôn ngữ Allen Walker Read, OK là dạng viết
ngắn của cụm từ “all correct”. Những người khác thì cho rằng OK là dạng chữ tắt
của các từ Hy Lạp có nghĩa là mọi thứ đều ổn cả. Không phải ai cũng đồng ý với
những giải thích này nên kết luận hãy còn bỏ ngỏ.
Tại miền Nam, còn phát
sinh từ ngữ OK Salem, một từ ghép thường được dùng bởi giới bình dân, ít học
như gái bán ba (bar), dân xích lô hoặc trẻ đánh giày. Một hình ảnh phải nói là
rất xấu trên đường phố thời đó: trẻ con thường chạy theo các chú GIs
(Government Issues – ám chỉ lính Mỹ vì dùng đồ chính phủ cấp phát) để chìa tay
xin thuốc lá hay kẹo chewing-gum (kẹo cao su)… miệng thì OK Salem rối rít. Thuốc
hút Salem có vị bạc hà (menthol), rất thịnh hành khi lính Mỹ đến Việt Nam, họ
mua từ PX (Post Exchange- một hình thức Quân tiếp vụ, chỉ bán cho quân nhân Hoa
Kỳ) và tuồn hàng ra thị trường chợ đen (black market). Người Sài Gòn chê Salem
là loại thuốc dành cho… phụ nữ, thuốc dành cho đàn ông “sành điệu” phải kể đến
Pall Mall, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston… Có điều thuốc Salem tại
Mỹ được phát âm là “xê-lầm” nhưng khi sang đến Việt Nam lại biến thành “xa-lem”
nên nếu có sang Mỹ mà hỏi mua thuốc “xa-lem” chắc chắn người bán sẽ lắc đầu quầy
quậy!
Number one cũng là một
cụm từ được dùng thường xuyên tại miền Nam với ngụ ý… số dzách hay số một. Người
bình dân dùng number one thay cho good chẳng hạn như trong câu tiếng Anh “bồi”:
“You number one GI!”. Phản nghĩa với number one sẽ là number ten, hoặc tệ hơn nữa
là “nâm-bờ ten tháo giường” được Việt hóa từ “number ten thousand” (số mười
ngàn). Ai dám bảo là dân Việt không có óc khôi hài?
Cao bồi là thuật ngữ
đã đi vào ngôn ngữ miền Nam khi hàng loạt các loại “phim miền Tây” (Western
movies) hay còn gọi là “phim cao-bồi”, được chiếu tại các rạp xi nê. Cowboys vốn
là những chàng trai chăn bò, có người hành động một cách nghĩa hiệp “trừ gian
diệt bạo” nhưng cũng có những kẻ “đầu trộm đuôi cướp” trong bối cảnh Miền Tây
Hoang dã (the Wild Wild West) tại Hoa Kỳ thời lập quốc. Bên cạnh các cowboys
còn có sự hiện diện của sheriff với ngôi sao trên ngực, họ là những cảnh sát do
dân trong thị trấn bầu lên để thực thi luật pháp.
Phim cao bồi đầu tiên
tại Mỹ thuộc loại phim câm (silent film) mang tên The Great Train Robbery được
sản xuất vào năm 1903. Những phim cao bồi nổi tiếng thời Sài Gòn xưa phải kể đến
Gunfight at the O.K. Corral (năm 1957 với các tài tử Burt Lancaster, Kirk
Douglas), Rio Bravo (1959 với John Wayne, Dean Martin, Ricky Nelson), The
Misfits (1961 với Clark Gable, Marilyn Monroe, Montgomery Clift), The Good, the
Bad and the Ugly (1966 với Clint Eastwood, Lee Van Cleef), Little Big Man (1970
với Dustin Hoffman, Faye Dunaway)…
Từ ngữ cao bồi sau khi
du nhập vào miền Nam lại có những biến thể về ý nghĩa. Người lái xe cao bồi được
hiểu là lái ẩu, ăn mặc cao bồi là diện những bộ quần áo lố lăng, khó coi… Tôi
còn nhớ, ngày xưa thường hát Học sinh hành khúc của Lê Thương với những lời ca
tụng một thế hệ học sinh của tương lai đất nước:
Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau.
Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao…
Thế nhưng bài hát này đã được
ai đó, chắc là mấy cậu học trò “rắn mắt”, cải biên thành:
Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô
Học sinh là người hủ tiếu ăn hai ba tô…
Chả là học sinh chỉ có đồng
phục quần xanh-áo trắng nên anh nào mặc áo ca rô thì bị “chụp mũ” là học sinh
cao bồi. Còn cái vụ hủ tiếu mà ăn tới “hai, ba tô” thì phải “xét lại”, có thể
vì “bí vần” nên câu trước “áo sơ mi ca rô” câu sau có vần “hủ tiếu ăn hai ba
tô” chứ học sinh làm gì có tiền mà ăn nhiều đến thế.
Tiện đây cũng xin nhắc lại
chuyện phim ảnh của Sài Gòn xưa. Để diễn tả một một sự kiện có tính cách kinh dị,
người ta còn dùng từ ngữ “hít-cốc”, xuất xứ từ cái tên của đạo diễn Alfred
Joseph Hitchcock, “ông vua phim kinh dị” của nền điện ảnh Hoa Kỳ với khoảng 50
bộ phim kéo dài suốt 6 thập kỷ. Người Sài Gòn đã có dịp xem rất nhiều phim
hít-cốc “toát mồ hôi lạnh” như The Man Who Knew Too Much (1956, với James
Stewart và Doris Day – trong phim này Doris Day hát bài What Will Be, Will Be –
Que Sera, Sera và đoạt giải Oscar âm nhạc hay nhất), Vertigo (1958, với James
Stewart, Kim Novak), Psycho (1960, với Anthony Perkins, Janet Leigh), The Birds
(1963, với Tippi Hedren, Rod Taylor)…
Một trong những tác động xấu
của người Mỹ đến miền Nam trong cuộc chiến vừa qua là hiện tượng xì-nách ba
(snack bar) mọc lên như nấm sau cơn mưa tại Sài Gòn. Khác hẳn với snack bar
nguyên thủy ở Hoa Kỳ, thường được hiểu là nơi bán các loại thức ăn nhẹ (snack)
như hot dogs, hamburgers, french fries, potato chips, corn chips… còn kèm theo
đồ uống. Sang đến Việt Nam, xì-nách ba trở thành nơi lui tới của những người
lính Mỹ xa nhà để uống rượu giải sầu và được phục vụ bởi các cô gái bản xứ. Họ
thường là gái quê, ít học và có chút nhan sắc, ăn mặc “thời thượng” với chiếc
mini jupe ngắn cũn cỡn. Gái xì-nách ba, hay còn gọi là gái bán ba, thường chỉ ngồi
uống nước ngọt hay nước trà với khách nên lính Mỹ gọi đó là Saigon Tea có giá từ
1 đến 2 đô la một ly. Các cô làm ở xì-nách ba không hẳn là gái điếm vì không phải
cô nào cũng “đi khách”. Cũng từ các cô gái bán ba phát sinh ra loại tiếng Anh
“giả cầy” kiểu “broken English”. Người ta nghe loáng thoáng trong câu chuyện giữa
các cô “đấu hót” với lính Mỹ “Hello GI, you buy me Saigon tea” (Chào anh lính,
anh mua cho em ly Sài Gòn nhé) hay còn rùng rợn với câu “No star where”, một cụm
từ trấn an mà các cô dịch thẳng từ tiếng Việt Không sao đâu!
Lính Mỹ còn đưa vào Việt Nam
một số thuật ngữ được dùng từ hồi chiến tranh Triều Tiên. Để gọi người đà bà lớn
tuổi họ dùng mama-san, đàn ông thì gọi là papa-san còn con nít là baby-san.
Cũng vì thế, trong câu chuyện ở snack bar người ta thường bắt gặp những từ này
khi các cô gái bán ba muốn nói về gia đình mình. Mama-san còn được dùng để chỉ
người điều hành snack bar, tương tự như tài-pán, người phụ trách điều động gái
nhảy tại các dancing thời Pháp thuộc.
Kinh doanh xì-nách ba là một
nghề hái ra tiền tại Sài Gòn bên cạnh những dịch vụ như tắm hơi (steam bath),
mát-xa (massage) nhưng cũng chính các nghề này đã khiến cuộc sống trong xã hội
mất đi sự lành mạnh, đưa đẩy một số phụ nữ vào con đường tội lỗi. Tuy nhiên,
người ta cũng hiểu đó là những hệ quả không thể nào tránh khỏi của một đất nước
trong tình trạng chiến tranh.
Xã hội miền Nam bên cạnh nghề
thu hút một số người làm việc tại các quán ba còn có một giai cấp cao hơn, họ
làm việc cho các hãng thầu tư nhân của Mỹ như hãng RMK được thành lập từ đầu thập
niên 60 với các công trình xây dựng xa lộ Biên Hòa, quốc lộ 4 tại Phụng Hiệp…
hoặc các cơ quan trực thuộc chính phủ Hoa Kỳ như USAID.
Nói chung, họ là những người
đi làm sở Mỹ với mức lương cao nhưng phải đạt một trình độ tiếng Anh khả dĩ
trong công việc hàng ngày. Những người có trình độ cao hơn thì làm thông dịch
viên, ngay như Trường Sinh ngữ Quân đội cũng có những khóa đào tạo thông dịch
viên đồng hóa với cấp bậc trung sỹ để về phục vụ tại các tiểu khu có cố vấn Mỹ.
Năm 2011, tại Little Saigon,
đã có một buổi họp mặt “Cựu nhân viên sở Mỹ” nhân dịp Giáng sinh. Gần 400 cựu
nhân viên đã đến dự cuộc hội ngộ này, đa số là những người đã từng làm việc tại
Tòa đại sứ, Tổng lãnh sự Mỹ, các cơ quan chuyên môn như DAO, CIA, MACV, USAID,
USIS cùng những nhân viên hãng thầu RMK của tư nhân.
Cuối thập niên 60 và đầu thập
niên 70 là thời kỳ Sài Gòn chịu ảnh hưởng từ của phong trào hippy (hippie) của
Mỹ. Người ta thấy xuất hiện những từ ngữ có liên quan đến hippy như hoa hippy, hippy
bụi đời, hippy choai choai, hippy yaourt… Những kiểu thời trang hippy cũng xuất
hiện: váy ngắn (mini jupe, miniskirt), quần ống loe (quần chân voi), áo dài
hippy thì ngắn cũn cỡn mặc chung với quần ống loe còn con trai thì tóc dài đến
độ nhìn từ xa không thể nào phân biệt được giới tính…
Văn hóa hippy bao gồm từ
phong cách ăn mặc “bụi” đến những tư tưởng phóng khoáng, chống lại những quy ước
cứng nhắc của xã hội. Có thể nói, phong trào hippy là biến tấu của chủ nghĩa hiện
sinh (existentialism) theo kiểu “yêu cuồng, sống vội” với Jean Paul Sarte,
Françoise Sagan từ văn hóa Pháp.
Phong trào hippy tại Sài Gòn.
Cuối thập niên 60s
phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam đã nở rộ tại Mỹ với khẩu hiệu “Make
love not war” (làm tình chứ đừng gây chiến tranh). Biểu tượng của phong trào
hippy là hoa không lá (còn gọi là hoa hippy), đó là hình tượng của Power Flower
(sức mạnh của hoa) được bắt đầu từ năm 1965 tại khu Berkerly, California. Người
ta còn nhớ mãi hình ảnh một cô gái hippy đã gắn hoa trên họng súng của một quân
nhân thi hành nhiệm vụ giữ trật tự trong một cuộc biểu tình phản chiến.
Ở Sài Gòn, các người đẹp
gắn hoa hippy lên tóc, cài lên tai, dán lên mắt kính để làm duyên. Người ta còn
vẽ hoa lên xe hơi, lên xe Honda, thậm chí đôi lúc còn thấy hoa hippy xuất hiện
trên cyclo, xe ba gác, xe bò. Cô em gái tôi có một chiếc áo khi ủi đồ bị than rớt
cháy thủng một lỗ, thế là cô gắn luôn một cái hoa hippy, trước là để ngụy trang
sau là chạy theo… thời trang! Có thể nói Sài Gòn khi đó giống như Trăm hoa đua
nở, nhại tên một chiến dịch thanh trừng chính trị ở miền Bắc.
Tôi còn nhớ, Trường
Sinh ngữ Quân đội vào cuối thập niên 60 có một Chuẩn úy từ Thủ Đức về. Anh Thịnh
là một chuẩn úy trẻ, có học vị cao nhưng lại rất lè phè trong lối sống. Hằng
ngày anh đến trường bằng chiếc xe hơi bỏ mui (decapotable) được trang trí bằng
những bông hoa hippy. Thế là anh chuẩn úy trẻ có tên “Thịnh Hippy” kể từ đó. Có
thể nói, phong trào hippy cũng lan rộng đến người lính qua chuyện về “Thịnh
Hippy” nhưng nói chung, những người lính trận mỗi khi có dịp đi phép về thành
phố chắc chắn không thể chấp nhận lối sống hippy của các thanh niên, thiếu nữ tại
chốn phồn hoa đô hội.
Những người hằng ngày
phải đương đầu với súng đạn làm sao có thể “thông cảm” với những người hằng đêm
đi “bum” tại các phòng trà, dancing. Một đằng thì phải hy sinh tính mạng để
“tham chiến” còn một đằng thì lại ăn chơi để “phản chiến”. Đó là một trong những
“mâu thuẫn” trong chiến tranh Việt Nam. Phải chăng đó cũng là một trong những
lý do khiến miền Nam sụp đổ?
Nguyễn Ngọc Chính
Nhận xét
Đăng nhận xét