TỪ KÉP HÁN VIỆT – VIỆT ĐỒNG NGHĨA
TỪ KÉP HÁN VIỆT – VIỆT
ĐỒNG NGHĨA
Trong tiếng Việt từ xưa đến nay có một kiểu dùng từ rất đặc biệt và khác thường mà người Việt đã tạo ra và sử dụng, đó là những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa. Chúng là sự kết hợp của hai từ có nguồn gốc khác nhau, một là từ gốc Hán (đọc theo âm Hán Việt) và một là từ (gốc) Việt, nhưng về nghĩa chúnglại giống hoặc gần giống nhau. Thí dụ như: trụ cột, hương thơm, vụ việc, didời…Có thể hiện tượng này rất hiếm xảy ra trong các ngôn ngữ trên thế giới? Ngay trong tiếng Việt cũng còn có một số từ ghép Việt – Việt đồng nghĩa còn lưu lại như xe cộ, bếp núc, chó má, trong đó gồm một từ Việt ghép cùng với một từ đồng nghĩa là từ Việt cổ nay không còn dùng, hiểu được nghĩa nữa (nhưng từ Việt cổ này (từ tố mất nghĩa) vẫn có thể hiểu được nghĩa qua phương ngữ hoặc các tiếng của dân tộc thiểu số gần gũi với người Việt như cộ, núc, má (xin xem chi tiết trong [41]) hoặc có khi chỉ là sự ghép đôi 2 tiếng địa phương khác nhau nhưng đồng nghĩa như to lớn, bông hoa, màn mùng… dù sao, đây không phải là một dạng từ kép đồng nghĩa có nguồn gốc từ hai dân tộc khác biệt nhau về địa lý, văn hóa, ngôn ngữ như với loại từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa.
Các nhà nghiên cứu tiếng Việt vẫn chưa thống nhất tên gọi loại từ này nên đã gọi tên khác nhau tùy từng quan điểm: là từ ghép đẳng lập [7, 41] (vẫn được dùng trong giới ngữ học trong và ngoài nước), từ đôi Hán – Việt & Nôm [14], từ ghép láy nghĩa [43], hay là từ ghép song tiết đẳng lập [47],… Loại từ này đã gây ngạc nhiên, lúng túng cho các nhà nghiên cứu tiếng Việt (có khi còn bị chế giễu nữa như cách gọichữ đôi“ba rọi” [31], từ ghép“ nói lắp” [7]). Cho đến nay, các nhà ngữ học Việt Nam hầu như mới chỉ phân loại, mô tả mà chưa tìm hiểu tường tận và giải thích thỏa đáng về nguồn gốc của chúng.
Một trong những ý kiến đáng chú ý về từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa này là ý kiến của Lê Xuân Mậu trong bài viết “Chuyện lai ghép từ Hán-Nôm”, tác giả đã dẫn giải và biện hộ cho từ loại này như sau: “Nhiều người đã phát hiện hình thức lai ghép mà họ coi là "thừa" và "mách qué" vì chữ không ra chữ, nôm không ra nôm. Đó là những hình thức như in ấn, ca hát, lý lẽ. Thật ra ở hình thức lai ghép này có nhiều cái "lý" ngôn ngữ học rất đặc sắc. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho rằng vì chú ý đến âm hưởng, đến nhạc tính khi đặt câu, dùng từ đã tạo ra "từ đôi" chỉ có một âm có nghĩa, âm kia thì không thêm một ý nào. Đó cũng là trường hợp "chắp một âm ta với một chữ nho, mà hai chữ cũng đồng một nghĩa như tùy theo, thờ phụng, thì giờ, danh tiếng... chữ đơn âm tiết dễ thoảng qua tri giác, chữ kép dễ gây chú ý hơn, giúp ta dễ hiểu câu hơn".
Điều đó cũng giải thích việc thêm một âm nôm "dịch" luôn "chữ" đi trước để thành từ kép. Theo tôi, còn phải thêm rằng khi đặt hai âm "nôm" - "chữ" đồng nghĩa bên nhau để tạo thành một từ, người Việt cũng chỉ thực hiện một kiểu ghép đẳng lập: Ghép hai từ gần nghĩa để tạo ra một từ ghép có tính khái quát, tổng hợp. Lý lẽ, ca hát, in ấn không còn giữ nghĩa của các từ đơn tiết nôm, hán nữa...Cũng có khi tạo từ như thế người ta đã tạo ra một sắc thái nghĩa riêng... Hơn nữa đây có thể là do thói quen gắn "nôm" với "chữ" (khi có thể được) để bà con bình dân dễ hiểu.” [31]. Nhưng xem ra cách lý giải này của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Lê Xuân Mậu mới chỉ nhìn thấy những cành ngọn, là những yếu tố phụ (thuận tai, dễ nhớ, tạo sắc thái nghĩa mới) hơn nữa những yếu tố này cũng có thể dùng để giải thích cho những loại từ song âm khác (khuynh hướng song âm tiết phát triển dồi dào hơn đơn âm tiết), thí dụ: từ ghép Hán Việt - Hán Việt đồng nghĩa như oán hận, khảo sát, tranh đấu hay từ ghép Việt - Việt đồng nghĩa như dơ bẩn, đen tối, che chắn chứ chưa tìm ra được gốc rễ, nguyên nhân thực sự đã tạo ra những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa.
Chúng tôi đã tìm hiểu, khảo sát loại từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa trong tiếng Việt qua các văn bản chữ Nôm và Quốc ngữ, các tự điển, tự vị xưa nay rồi so sánh, sắp xếp và phân loại theo từng thời kỳ lịch sử và chúng tôi đã tìm thấy được những sự trùng hợp không ngờ giữa những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa này với những dạng song ngữ Hán – Nôm có trong các sách học chữ Hán bằng văn vần như Tam thiên tự giải âm, Ngũ thiên tự, Thiên tự văn giải âm (Nhất thiên tự)...Làm sao có thể giải thích được hiện tượng này?
Có rất nhiều chứng cứ cho thấy những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa chỉ xuất hiện sau khi các sách trên ra đời chứ trước đó chúng chưa xuất hiện, điều này chứng tỏ có một mối liên quan mật thiết với việc học chữ Hán từ xưa đến nay, trong quá trình học thuộc lòng chữ Hán thông qua âm Hán Việt và tiếng Việt, người Việt khi nói hay viết đã tự động dùng nguyên dạng song ngữ có sẵn để diễn đạt ý niệm mới nào đó. Đây chính là nguyên nhân sâu xa, quan trọng làm phát sinh, phát triển số lượng từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa trong tiếng Việt ngày càng nhiều hơn qua thời gian. Khi gọi là từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa chúng tôi muốn nhấn mạnh ý nghĩa “kép” để nêu bật kiểu cặp đôi của 2 từ đồng nghĩa Hán Việt và Việt đã hiện diện sẵn trong các bài học từ vựng song ngữ Hán – Việt hay các sách học chữ Hán giải âm được dân chúng khai thác và sử dụng chứ không dùng ý nghĩa “ghép” như một chủ ý kết hợp 2 từ đồng nghĩa không thông qua các dạng song ngữ sẵn có như trên và để phân biệt, chúng tôi sẽ gọi những kiểu ghép này là từ ghép Hán Việt - Hán Việt đồng nghĩa và từ ghép Việt - Việt đồng nghĩa.
Trước khi đi sâu vào khảo sát, chúng ta nên phân biệt một số trường hợp tưởng như là những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa nhưng thật ra lại là những từ ghép Hán Việt - Hán Việt đồng nghĩa (kết hợp này vần thường thấy trong tiếng Hán như hận thù, tranh đấu, hoan hỉ), thí dụ như : gia thêm = gia thiêm,thẩm xét = thẩm sát, tích chứa = tích trữ...Những trường hợp trên (thiêm = thêm, sát = xét, trữ = chứa) theo quan điểm ngữ âm lịch sử là do sự biến đổi ngữ âm từ âm Hán Việt sang âm Hán Việt được Việt hóa về âm đọc (đọc trại (chệch) âm, có khi đổi âm vì kỵ húy) hay kể cả những âm tiền (cổ) Hán Việt (có trước khi hình thành âm Hán Việt - trước thời Đường -) [10,30,40,41,43] nên dễ nhận lầm là từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa.
Đôi khi xảy ra một số trường hợp thú vị như: di dời, mùi vị, hóa ra sau khi nhận diện, các từ dời, mùi lại chính là âm cổ Hán Việt của chính di, vị, như thế các từ kép này lại trở thành từ láy Hán Việt: di di, vị vị! Tuy nhiên chúng tôi vẫn thu thập, ghi nhận những từ kép thuộc loại này để vừa làm tiêu chuẩn khảo sát vì xét thấy người Việt xưa chưa có quan niệm gì về ngữ âm lịch sử nên khi dùng một từ để giải âm, giải thích chữ Hán thì có lẽ tiền nhân chỉ biết đó là tiếng Việt, quốc âm (không phải là âm Hán Việt) mà thôi và vừa để chứng minh cho ngay cả những từ ghép Hán Việt - Hán Việt đồng nghĩa cũng phần nào xuất phát từ viêc học chữ Hán.
Còn một điểm nữa cũng cần lưu ý, đó là hiện tượng từ kép bị đảo lộn qua lại về trật tự các thành tố của từ. Trường hợp này vẫn thường xảy ra trong tiếng Việt với nhiều kiểu loại từ khác nhau, có thể là vì nhu cầu tâm lý muốn “Việt hóa về mặt ngữ pháp” các từ ghép gốc Hán như cáo tố > tố cáo, nhiệt náo > náo nhiệt, lợi quyền > quyền lợi...hay có khi chỉ vì thuận tai, thuận miệng khi nói năng hoặc vì nghệ thuật dùng từ khi viết văn, làm thơ, phú như: trụ cột = cột trụ, hương quê = quê hương, hiến dâng = dâng hiến... nhưng về mặt ngữ pháp chúng vẫn có ý nghĩa, chức năng như nhau. Do vậy những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩamà chúng tôi đang khảo sát dù ở trật tự nào đi nữa, căn bản vẫn là những hình thức song ngữ Hán - Nôm, từ kép Hán Việt - Việt cho nên chúng tôi sẽ chọn lựa những từ kép có trật tự đảo lộn này để làm bằng chứng có giá trị tương đồng với từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa.
I. Từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa theo các thời kỳ lịch sử
A. Thời kỳ từ thế kỷ XIII – XVI
Qua sự khảo sát chưa đầy đủ (chúng tôi chưa có đủ điều kiện để có thể thu thập toàn bộ chứng từ liên quan) các văn bản chữ Nôm và Quốc ngữ, ở giai đoạn thế kỷ XIII - XVI (cho đến nay, chỉ còn lưu truyền lại những tác phẩm viết bằng chữ Nôm ở thế kỷ XIII, trước đó chưa tìm thấy một văn bản chữ Nôm nào) trong tiếng Việt đã xuất hiện 2 từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa như trong 2 bài phú [21] của Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo có 1 từ kép: thân mình (H6, c.25) và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca có 1 từ kép: thờ phụng (c.21); sang thế kỷ XV, trong Quốc âm thi tập [70] của Nguyễn Trãi thấy có 3 từ kép: tỏ tường (B79, c.3), nguyện xin (B107, c.7), khiêm nhường (B113, c.7); trong Hồng Đức quốc âm thi tập [57] có 2 từ kép: hương quê (Động đình thu nguyệt), sâm(1) họp (Hè ốc); tới thế kỷ XVI, trong Bạch Vân am thi tập [12] của Nguyễn Bỉnh Khiêm thấy dùng 6 từ kép: đồng tiền (B5), ngu dại (B22), gửi thác (B152), hiềnlành và ngây si (B94), dối trá (B160); trong Tân biên truyền kỳ mạn lục [20] của Nguyễn Thế Nghi có 3 từ kép: Dấu tích (Nam xương nữ tử truyện), xâmlấn (Lệ nương truyện), quái gở (Tản viên từ phán sự lục).
B. Thời kỳ thế kỷ XVII qua tự điển Việt-Bồ-La [4]
năm 1651 của Alexandro de Rhodes
Cốt xương = xương cốt Sinh đẻ
Giảm bớt Tích vết = vết tích
Hương thơm Thôn làng
Kỳ hẹn (kỳ hạn) Trí khôn
Màu sắc Trụ cột
Tưởng nhớ Nhược bằng
Riêng 2 từ kép can gián, kiện cáo tuy không thấy có trong Việt-Bồ-La nhưng đã có trong tập “Lịch sử nước Annam” [13] viết tay năm 1659 của Bento Thiện.
(Lưu ý: Từ đây trở đi, chúng tôi sẽ viết những từ kép đang khảo sát đúng chính tả tiếng Việt hiện đại dù trong các tự điển, tự vị, văn bản chữ Nôm xưa đã ghi lại theo lối ký âm thời chữ Quốc ngữ sơ kỳ hay theo âm đọc thời xưa)
Nhận xét chung: Từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVII, số lượng từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa bắt đầu xuất hiện lẻ tẻ nhưng ngày càng tăng lên theo thời gian. Ở giai doạn này không thấy trong thư tịch Việt Nam nói gì đến các sách học chữ Hán song ngữ Hán - Nôm giải âm (cũng có thể có nhưng đã bị thất truyền? sách Chỉ Nam ngọc âm viết theo thể lục bát có thể ra đời ở thời điểm này nhưng vì nó chú trọng vào sự giải thích dài lời nên không thấy giống với hình thức “giải âm” dễ ghi nhớ như Tam thiên tự: “Thiên trời, địa đất, cử cất, tồncòn...” nên không dùng để tham khảo được) nhưng qua bài hát đồng dao xưa liên quan đến việc học chữ Hán như:
“Cục ta cục tác,
Chữ kê là gà.
Giữ cửa giữ nhà,
Chữ khuyển là chó.
Bắt chuột bắt bọ,
Chữ miêu là mèo.
Ăn cám ăn bèo,
Chữ hợi là lợn.
Vừa cao vừa lớn,
Chữ tượng là voi.
Ăn trầu đỏ môi,
Chữ Phật là Bụt.
Ngồi cao tột bậc,
Chữ vương là vua...[48]”
Ta có thể phần nào xác định được nguyên nhân chính của sự xuất hiện từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa ở thời sơ kỳ (trước khi xuất hiện cách sách giải âm như Tam thiên tự) đó là: vai trò quan trọng của việc học chữ Hán với âm Hán Việt thông qua tiếng Việt bằng cách học thuộc lòng các bài soạn tự vựng Hán – Việt căn bản do các thầy đồ làm ra, hay có thể từ các bài hát đồng dao dạy chữ Hán chủ yếu bằng truyền miệng đã làm phát sinh, phát triển những loại từ đặc biệt này trong tiếng Việt.
C. Thời kỳ sau Việt-Bồ-La và trước tự điển Anamitico-Latinum của Pigneau de Béhaine [56] năm 1772-1773
Có một số từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa đã xuất hiện trong ca dao Việt Nam như: tống đưa, phân chia, tính toán, sợ hãi, sum vầy [36] mà tự điển Việt-Bồ-La không ghi nhận, nhưng tự vị Anamitico-Latinum của P.Béhaine lại có. Do ca dao được truyền miệng từ đời này sang đời kia nên rất khó xác định về thời điểm, cho nên chúng tôi tạm cho vào thời kỳ cuối thế kỷ XVII, nửa đầu thế kỷ XVIII. Cũng còn có một số từ kép như: Tụ họp (tụ hiệp), luận bàn = bàn luận,cảm (cám) mến, yến Tiệc = Tiệc yến chỉ có trong tự vị của P. Béhaine nhưng trước đó chưa tìm thấy trong các chứng từ hay truyền khẩu và chúng tôi cũng để vào thời kỳ này, dĩ nhiên những từ kép trên đây, chúng phải có trước rồi P. Béhaine mới có thể ghi nhận trong tự vị .
Đặc biệt là trong Chinh phụ ngâm khúc [45] tương truyền là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) diễn âm có 2 từ kép tiễn đưa (c.14), cách ngăn (c.55) [dù từ Phan Huy Chiêm (1926) đến Học giả Hoàng Xuân Hãn (1953)[21], Nguyễn Văn Xuân (1972)[51]…đã từng khảo chứng, giành lại tác quyền diễn âm cho Phan Huy Ích nhưng vì đến tận ngày nay nỗ lực trên vẫn chưa được giới nghiên cứu Hán Nôm nhất trí, đồng thuận chứng tỏ còn nhiều khúc mắc chưa thông, nên chúng tôi vẫn tạm chấp nhận là của Đoàn Thị Điểm] và trong truyện Nôm Hoa tiên [50] của Nguyễn Huy Tự (1743 - 1790) có 2 từ kép bụi trần (C.99) phô bày (C.995),theo Sài Phi Thư Trang trong bài viết “Bốn vấn đề văn bản học của Hoa tiên” tác giả đã nhìn nhận: “Theo kết quả nghiên cứu của nhiều người, thì Nguyễn Huy Tự đã viết tập truyện khoảng giữa thế kỷ XVIII, từ năm 1759 (năm ông tới Thăng Long) đến năm 1768 (năm ông được bổ nhiệm làm quan ở Sơn Tây” [2] những từ kép trên không thấy có trong tự vị của P. Béhaine và theo chúng tôi chúng cũng thuộc vào thời kỳ nửa đầu thế kỷ XVIII và trước tự vị của P. Béhaine 1772-1773.
D. Thời kỳ xuất hiện sách Tam thiên tự giải âm, Ngũ thiên tự, Thiên văn tự giải âm từ nửa cuối thế kỷ XVIII cho đến cuối thế kỷ XIX
Mỗi khi nhắc đến các loại sách học chữ Hán thời xưa, dĩ nhiên không thể không kể ra các sách tiêu biểu và trọng yếu, rất phổ biến cho người mới học chữ Hán và được tái bản nhiều lần bằng chữ Nôm và chữ Quốc ngữ mãi cho đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI đó là: Tam thiên tự giải âm, Ngũ thiên tự, Thiên tự văn giải âm (Nhất thiên tự), các sách khác như Nhật dụng thường đàm, Tự Ðức thánh chế tự học giải nghĩa ca, Ðại Nam quốc ngữ... không được phổ biến bằng do đó chúng tôi chỉ dùng những sách này để khảo sát và lấy làm những chứng cứ quan trọng liên quan đến từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa [các sách tham khảo chính: [15, 16, 29, 37, 60, 61, 73]. Trước hết, cần xem xét qua về thời điểm xuất hiện của các sách học chữ Hán giải âm:
Về cuốn Tam thiên tự giải âm, theo nghiên cứu của Tiến sĩ Hoàng Hồng Cẩm trong bài viết “Về cuốn Tam thiên tự do Ngô Thì Nhậm soạn” đã đưa ra dẫn chứng: “Theo Ngô gia thế phả thì năm 16 tuổi Ngô Thì Nhậm đã soạn sách dưới sự hướng dẫn của cha là Ngô Thì Sĩ” và đi đến nhận định: “Ngô Thì Nhậm đã soạn sách Tự học toản yếu (tức sách Tam thiên tự giải âm) trong thời điểm, chí ít cũng là từ lúc còn trẻ, khoảng năm 16 tuổi như thông tin trong Ngô gia văn phái; rồi lúc vào làm quan trong triều, ông lại có dịp tìm tòi, học hỏi thêm, cả thu nhặt tài liệu lẫn trao đổi trực tiếp với các đồng liêu tiền bối, sau đó mới phiên âm giải nghĩa để soạn thành sách. Số lượng chữ được Ngô Thì Nhậm biên soạn là ba nghìn chữ...
Theo Hoàng Lê nhất thống chí, thì khoảng năm Canh Tý, niên hiệu CảnhHưng 41 (1780), Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm được chúa Trịnh Sâm giao cho làm Tùy giảng cho Thế tử Trịnh Tông ở trong phủ Chúa. Như vậy, thì rất có thể, trong khoảng thời gian này, do phải soạn sách để giảng dạy cho Thế tử Tông, Ngô Thì Nhậm đã kết hợp biên soạn và hoàn thành việc đưa in sách Tự học toản yếu (tứcTam thiên tự giải âm) như đã nói trong bài tựa. Và nếu đúng, thì đây cũng chính là thời điểm cuối thế kỷ XVIII như cụ Trần Văn Giáp đã ghi theo truyền văn.”[3]. Như vậy theo nghiên cứu trên, Tam thiên tự đã được chính Ngô Thời Nhiệm (1746- 1803) soạn thảo lần đầu tiên vào năm ông mới 16 tuổi (1762). (Nếu đúng như vậy sách này đã ra đời trước tự vị Anamitico-Latinum do P.Béhaine viết tay vào năm 1772-1773 khoảng 10 năm, một khoảng thời gian khá dài cho việc du nhập các kiểu song ngữ Hán Nôm giải âm từ Tam thiên tự vào tiếng Việt (chắc hẳn ở thời kỳ đầu Tam thiên tự đã được truyền tay, truyền khẩu trong giới học trò và phổ biến trong dân gian), điều này phù hợp với phát hiện của chúng tôi: Trong tự vị của P.Béhaine đã thấy ghi nhận khoảng 17 từ kép Hán Việt + Việt đồng nghĩa giống nguyên mẫu trong Tam thiên tự (xin xem phần sau) nhưng lại không hề thấy ở giai đoạn trước đó (thế kỷ XIII-XVII)
Về sách Ngũ thiên tự, từ trước tới nay các nhà nghiên cứu Hán Nôm vẫn chưa xác định được tác giả và niên đại. Nói chung chỉ cho sách này ra đời sau Tam thiên tự, khoảng thế kỷ XIX. Nhưng theo Trần Doãn Cương quê tại xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà tĩnh là hậu duệ đời thứ 10 cụ Trần Doãn Tư đã cho biết: “Theo gia phả họ Trần Doãn tại làng Yên Tràng xã Kim Lộc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh thì cụ Trần Doãn Tư là tác giả cuốn Ngũ Thiên Tự. Hiện phần mộ của cụ vẫn an táng tại xã Kim Lộc trên bia mộ vẫn ghi rõ. Ở sách “Lịch sử Hà Tĩnh” tập I, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia cũng ghi: Cụ Trần Doãn Tư là tác giả cuốn Ngũ Thiên Tự... Ông Trần Doãn Tư chiêu mộ quan chống Tây Sơn, sau khi thất bại ông bị bắt giam 6 tháng, trong thời gian ở tù ông đã viết cuốn Ngũ Thiên Tự trình lên nhà vua rồi được tha bổng.” [23]. Như vậy, trong giới hạn tài liệu hiện có, ta có thể tạm tin rằng sách Ngũ thiên tự đã được Trần Doãn Tư biên soạn (hoặc biên tập lại) vào khoảng sau khi nhà Tây Sơn (1788) xuất hiện và sau sách Tam thiên tự (1780).
Còn về sách Thiên tự văn giải âm thì vẫn chưa xác định được ai là tác giả và niên đại ra đời. Theo Kiều Thu Hoạch giới thiệu trong Lý Văn Phức, Ngọc - Kiều Lê Tân truyện [27] đã cho biết Lý Văn Phức (1785 - 1849) từng biên soạn Thiên tự văn diễn âm theo thể lục bát vào đời Nguyễn, Viện nghiên cứu Hán Nôm có lưu trữ, liệt kê sách Thiên tự văn giải âm ký hiệu AB.227, AB.91: in năm Thành Thái Canh Dần (1890) cũng theo thể lục bát, có lẽ đây là bản chữ Nôm sớm nhất còn lại, nhưng không biết có phải là cùng một sách hay không, dù sao thì Thiên tự văn giải âm chỉ xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX , sau sách Ngũ Thiên Tự.
1. Những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa có trong Tam thiên tự và Anamitico-Latinum của Pigneau de Béhaine (2)
Ca hát Lý lẽ
Danh tiếng Mưu chước
Đoạn đứt = đứt đoạn Nghi ngờ
Gia thêm (gia thiêm) Phức thơm = thơm phức
Giái (giới) răn Tà vạy
Hoàn trả Thoát khỏi
Kính nể Tư riêng = riêng tư
Kỵ kiêng = kiêng kỵ Xướng hát
Mê say = say mê
2. Những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa có trong Tam thiên tự và Đại Nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của [25]
Bạch trắng = trắng bạch Hiếu thảo
Bao bọc Hung dữ
Dụ dỗ Kỳ lạ = lạ kỳ
Dư thừa Nhẫn nhịn
Giả dối = dối giả Lao nhọc
Giáng xuống Lão già
Lực sức = sức lực Tùy theo
Phát ra Tụng kiện = kiện tụng
Quy về Ước mong
Thẩm xét (thẩm sát) Xác thật (xác thực)
Thiêu đốt
3. Những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa có trong Tam thiên tự và Annamite - Français của Génibrel [26]
Chính ngay = ngay chính
Luyện rèn = rèn luyện
Phụ giúp
Tích chứa (tích trữ)
Tinh ròng
Thì giờ (thời giờ)
4. Những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa có trong Ngũ thiên tự và Đại Nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của (3)
Binh lính
Đảng bè = bè đảng
Tiến dâng = dâng tiến
Thù hằn (thù hận) = hằn thù (hận thù)
5. Những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa có trong Ngũ thiên tự và Annamite - Français của Génibrel
Giái (giới) ranh
Tạo dựng
Tiếp nối
6. Những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa có trong Thiên tự văn giải âm (Nhất thiên tự) và Đại Nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của
Ấu thơ = thơ ấu
Thối (thoái) lui
7. Những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa có trong thiên tự văngiải âm (Nhất thiên tự) và Annamite - Français của Génibrel (4)
Huyền nhiệm
E. Thời kỳ từ thế kỷ XX đến nay
Sau đây là những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa đã có mặt trong Tam thiên tự, Ngũ thiên tự, Thiên tự văn nhưng sau khi khảo sát các văn bản chữ Nôm, Quốc ngữ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, lại không hề thấy hiện diện (5), ngược lại chúng đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XX cho đến nay (6).
1. Trong Tam thiên tự
Nịnh hót (Việt Nam phong tục 1913-1914) [58] (VNPT 1913-1914)
Vị ngôi = ngôi vị (Thần Chung 1929) [59]
Bồi đắp (Tự điển Việt – Hoa – Pháp 1937) [17] (TĐVHP1937)
Băng giá (TĐVHP 1937)
Cứu xét (cứu sát) (TĐVHP 1937)
Mộ mến = mến mộ (TĐVHP 1937)
Bái lạy (Việt Nam Văn Hoá Sử Cương 1938)[9] (VNVHSC1938)
Ám mờ = mờ ám (VNVHSC1938)
Vị mùi = mùi vị (Chí Phèo 1941) [33]
Cấp bực (bậc) Tự điển Việt – Pháp 1950 (TĐVP 1950) [11]
Phòng ngừa (phòng ngự) (TĐVP 1950)
Thâm sâu (Từ điển Việt Nam 1958 [62] (TĐVN 1958)
Tuyển chọn (TĐVN 1958)
Chiếu soi (Tăng Triệu và tánh không học Đông phương 1973)[67]
Khởi dậy (Phép lạ của sự tỉnh thức 1975) [53]
Tu sửa (Từ điển tiếng Việt 1977) [68] (TĐTV 1977)
Đạc đo = đo đạc (TĐTV 1977)
Nghinh (nghênh) rước (Tây Dương Gia Tô bí lục 1981) [35]
Cổ xưa (Cổ sơ) (Từ điển tiếng Việt 1990) [19] (TĐTV 1990)
Ẩn giấu (TĐTV 1990)
Ký gửi (TĐTV 1990)
Khi dễ (TĐTV 1990)
Hùng mạnh (TĐTV 1990)
Huyết máu = máu huyết (TĐTV 1990)
Tẩy rửa (Viện KHXH - bản dịch tiếng Việt Đại Việt sử ký toàn thư 1985-1993 -) [69]
Song đôi (Núi Đôi 1990) [72]
Tĩnh lặng (Nhà tỉ phú bất hạnh 1996) [18]
Di dời (Sài Gòn Giải Phóng 1996) [6]
Hoán đổi (Thời báo Kinh Tế Việt Nam 1997) [6]
Triệu vời (Lược khảo Huỳnh Đình kinh 2001) [28]
Cương cứng (Tự điển Việt Anh 2003) [5] (TĐVA 2003)
Ấn in = in ấn (Báo Tuổi Trẻ 2003) [1]
Khai mở (Lưới trời ai dệt? 2004) [49]
Manh mống (Diễn đàn Lịch sử VN 2009) [55]
2. Trong Ngũ thiên tự
Sự việc (VNPT 1913-1914)
Thấu rõ (Vietnamese-English dictionary 1966) (V-E D 1966) [38]
Vụ việc (Công an Nhân dân 1992) [6]
Húy kiêng = kiêng húy (Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại1996) [34]
Não óc = óc não (Vạn Vật Đồng Nhất Thể 2002) [52]
Hiến dâng (TĐVA 2003)
3.Trong thiên tự văn giải âm (Nhất thiên tự):
Văn vẻ (Việt Nam tự điển 1931) [22]
Nghinh (nghênh) đón (V-E D 1966)
Chỉnh sửa (Giáo dục Thời đại 1996) [6]
Tống theo (Ba người khác 2006) [64]
II. Nhận định chung về từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa
Qua những khảo sát và dẫn chứng từ các văn bản chữ viết (Nôm, Quốc ngữ) và truyền khẩu theo từng thời kỳ lịch sử liên quan đến từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa, có khả năng chúng tôi đã tìm ra được nguyên nhân về sự phát sinh, tồn tại và phát triển của từ loại đặc biệt này:
Khởi đầu từ lịch sử dân tộc Việt Nam cổ đại với triều đại nhà Đinh (Đại Việt sử ký toàn thư đã đặt nhà Đinh mở đầu Bản kỷ) [69] đã thống nhất đất nước, giành lại độc lập sau 1000 năm lệ thuộc Trung Hoa về mọi mặt và dẫn đến sự hưng thịnh của triều đại Lý – Trần cũng chính là thời điểm của sự hình thành và ổn định âm đọc Hán Việt của chữ Hán (khoảng Đường – Tống)[10,30,44] và sự truyền dạy chữ Hán như một tử ngữ - không còn nói và đọc chữ Hán theo âm Trường An (Bắc Kinh) của Trung Hoa nữa – các nhà Nho, thầy đồ Việt xưa đã giảng dạy chữ Hán với âm đọc Hán Việt và giải thích chữ Hán bằng Quốc âm (tiếng Việt) cho người học chữ Hán thông qua truyền miệng những tự vựng kiểu Hán – Việt, có thể lúc đầu để giúp học trò dễ nhớ dễ học, các thầy đồ đã sử dụng văn vần như kiểu đồng dao phổ biến ở lớp học và trong dân gian rồi từ khi chữ Nôm xuất hiện và phát triển mới bắt đầu xuất hiện những sách học song ngữ Hán – Nôm như Tam thiên tự giải âm, Ngũ Thiên tự, Thiên tự văn giải âm…
Sau khi người học chữ Hán đã học thuộc lòng, qua giao tiếp khi nói hay viết đã tự nhiên một cách vô thức du nhập nguyên mẫu song ngữ Hán – Việt hay Hán – Nôm từ các bài học tự vựng, đồng dao, sách học chữ Hán giải âm bằng văn vần vào trong tiếng Việt theo từng thời kỳ lịch sử. Mục đích chính là nhằm xác định, bổ sung thêm ý nghĩa cho người nghe, đọc dễ hiểu (với người biết và không biết chữ Hán) cộng hưởng với quy luật phát triển ngữ âm ngày càng hướng về song tiết, đa âm tiết và nhu cầu nội tại thuộc tâm lý: thuận tai, dễ nhớ và kể cả thói quen khoe chữ, sính dùng chữ Hán. Nếu như ở các thời kỳ trước khi chữ Nôm hình thành vào thời Trần (theo lưu truyền và chứng cứ văn tự sớm nhất còn lại) chúng ta không có gì chắc chắn để chứng minh những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa đã ra đời vào thời kỳ này do quá trình học chữ Hán ngoài sự đoán định dựa vào truyền khẩu (như qua đồng dao) ra thì sau khi chữ Nôm phát triển và đặc biệt là kể từ khi các sách học chữ Hán như Tam thiên tự xuất hiện sau đó là Ngũ thiên tự, Thiên tự văn… đã là những chứng cứ rất quan trọng để chứng minh một cách xác đáng:
Vào thời kỳ xuất hiện Tam thiên tự, có một số dạng song ngữ Hán – Nôm của Tam thiên tự trùng hợp với những từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa nhưng không thấy có trong các văn bản chữ Nôm, chữ Quốc ngữ trước và trong tự vị Anamitico-Latinum (1772-1773) của P.Béhaine mà lại thấy xuất hiện trong Đại Nam Quốc âm tự vị (1895-1896) của Huỳnh Tịnh Paulus Của và tự điển Annamite - Français của J.F.M Génibrel (1898). Ngay ở thời hiện tại, số lượng khá nhiều các dạng song ngữ Hán – Nôm giống với những từ kép đồng nghĩa Hán Việt - Việt có mặt trong các sách Tam thiên tự, Ngũ thiên tự, Thiên tự văn đã không hề xuất hiện trước khi chúng ra đời và cả trong thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX nhưng lại hiện diện trong thế kỷ XX và hiện nay, chẳng hạn như những từ kép: duyệt xem, ẩn giấu, di dời, vụ việc, in ấn, kiêng húy, óc não…. Thực trạng này gắn liền với sự tái bản nhiều lần các sách trên bằng chữ Quốc ngữ, qua nhiều lần hiệu chỉnh, thay đổi, bổ sung: Tam thiên tự những năm 1915, 1959, 1969, 1999, 2008…Ngũ thiên tự những năm 1909, 1915, 1929, 1934-1935, 1939, 1940, 1997, 1999, 2004, 2007… Thiên tự văn (Nhất thiên tự) những năm 1909, 1914, 2002…
Đối với các thành kiến khinh chê, giễu cợt kiểu từ loại này, theo quan điểm của chúng tôi như vậy là cực đoan, hẹp hòi bởi vì nếu tìm hiểu sâu rộng hơn về từ Hán Việt, thực ra những từ Hán Việt trong phạm vi đang khảo sát, tuy có gốc tiếng Hán nhưng chỉ khi nào chúng được sử dụng trong viết văn, làm thơ bằng chữ Hán theo ngữ pháp Hán mới được gọi là chữ Hán thuần túy còn khi ở trong tiếng Việt, những từ Hán Việt này đã được Việt hóa cả về âm đọc (âm Hán Việt và âm Hán Việt bị biến âm), ý nghĩa và chức năng ngữ pháp. Cho nên ở góc độ này, chúng ta vẫn có thể gọi những từ Hán Việt tuy có gốc Hán cũng là những từ ngữ nằm trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Do đó, kiểu từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa xét đến cùng cũng có vai trò tương đương với loại từ ghép Việt - Việt đồng nghĩa.
Từ kép Hán Việt - Việt đồng nghĩa, dù được khen hay chê nhưng không ai có thể phủ nhận được một sự thật: Từ xưa đến nay nhân dân ta đã sử dụng loại từ đặc biệt này và qua chứng cứ văn tự chỉ còn lại từ nhà Trần ta có thể tạm xác định sớm nhất vào khoảng từ thế kỷ XIII cho đến ngày nay, những từ kép này đã được “nhập thể” vào tiếng nói hằng ngày lẫn trong ca dao và thơ văn chữ Nôm, chữ Quốc ngữ, làm phong phú thêm tiếng Việt và tạo nên một bản sắc, một nét riêng của ngôn ngữ dân tộc Việt Nam.
ĐINH VĂN TUẤN
Chú thích
Các nhà phiên Nôm vẫn đọc là sum họp nhưng như vậy là không đúng vì thời Hồng Đức chữ Hán sâm không thể là chữ húy của Trịnh Sâm để đọc biến âm là sum được.
Trong Tam thiên tự có một số dạng song ngữ Hán – Nôm bị trùng với các từ kép Hán Việt – Việt đồng nghĩa đã xuất hiện khoảng thời Trần đến thế kỷ XVII nên chúng tôi sẽ không dùng để khảo sát ở thời kỳ này (thế kỷ XVIII cho đến cuối thế kỷ XIX).
Trong Ngũ thiên tự có một số dạng song ngữ Hán – Nôm bị trùng với nhũng từ kép Hán Việt – Việt đồng nghĩa đã có trong thời kỳ từ thời Trần đến tự vị của Béhaine nên chúng tôi sẽ không dùng để khảo sát ở thời kỳ này (thế kỷ XIX).
Trong Thiên tự văn giải âm (Nhất thiên tự) có khá nhiều dạng song ngữ Hán – Nôm bị trùng với những từ kép Hán Việt – Việt đồng nghĩa đã có trong khoảng thời kỳ từ thời Trần đến tự vị của Béhaine nên chúng tôi sẽ không dùng để khảo sát ở thời kỳ này (thế kỷ XIX).
Chúng tôi đã thử xem trong Tự điển chữ Nôm, Nguyễn Quang Hồng (chủ biên), Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2006 và Tự điển chữ Nôm trích dẫn do Viện Việt Học ấn hành 2009, nhưng đã không tìm ra (Nhân đây xin chân thành cảm ơn anh Nguyễn Doãn Vượng, đồng tác giả TĐCNTD đã có hảo ý tặng sách cũng như cùng với anh Lân ở VVH tận tình giúp tài liệu Nhất Thiên Tự).
Những thời điểm xuất hiện của các từ kép Hán Việt – Việt đồng nghĩa được dẫn ra từ các sách báo tham khảo (kể cả trên các website) trên chỉ tương đối vì do chúng tôi chưa đủ điều kiện thu thập, khảo sát toàn bộ các tài liệu, chứng từ trong thế kỷ XX, nên có thể có một số từ kép có khả năng xuất hiện sớm hơn thời điểm tìm thấy.
Tài liệu tham khảo
1. Bố cáo thành lập và giải thể công ty (Mục Dịch vụ du lịch), Tuổi Trẻ online, thứ năm 25/9/2003 (tuoitre.vn)
2. Bốn vấn đề văn bản học của Hoa tiên, Sài Phi Thư Trang, T/c Hán Nôm số 1(10) năm 1991
3. Về cuốn Tam thiên tự do Ngô Thì Nhậm soạn, Hoàng Hồng Cẩm, T/c Hán Nôm, Số 1 (80) 2007
4. Alexandro de Rhodes (1651), Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm et Latinvm, bản dịch tiếng Việt của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
5. Bùi Phụng, Từ điển Việt – Anh, Nxb Thế giới, 2003.
6. Chu Bích Thu (chủ biên), Từ điển từ mới tiếng Việt, Nxb Phương Đông, 2008.
7. Đàm Trung Pháp (Điểm sách) “Vietnamese/ Tiếng Việt không son phấn”, nguồn từ http://www.viethoc.com/Ti-Liu/bien-khao/dhiem-sach/vietnamesetiengvietkhongsonphan
8. Đào Duy Anh, Giản yếu Hán Việt từ điển, Nxb Tiếng Dân, Huế 1932, (songhuong.com.vn).
9. Đào Duy Anh, Việt Nam Văn Hoá Sử Cương, Quan Hải tùng thư xuất bản, Huế, 1938, Xuất bản Bốn phương, Viện giáo khoa - Hiên Tân Biên tái bản, Sài Gòn 1951.
10. Đào Duy Anh, Chữ Nôm: Nguồn gốc – Cấu tạo – Diễn biến. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1975.
11. Đào Văn Tập, Tự điển Việt – Pháp, Nhà Sách Vĩnh Hảo, Sài Gòn, 1950
12. Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Hồ Như Sơn, Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học, 1983.
13. Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620 – 1659, Tủ Sách Ra Khơi xuất bản, Sài Gòn 1972.
14. Đỗ Thông Minh, Chữ ghép âm Hán Việt & Nôm (chữ Nôm dạng Gothic, chữ Hán-Việt dạng Time), nguồn: http://www.phiem-dam.com /1chuhan100.pdf
15. Đoàn Trung Còn (biên soạn), Ngũ thiên tự, Nxb Thanh niên, tái bản 1999.
16. Đoàn Trung Còn (biên soạn), Tam thiên tự, , nguồn: sachxua.net
17. Gustave Hue, Tự điển Việt – Hoa – Pháp 1937 (Tái bản theo bản in Imprimerie Trung Hòa 1937), Nhà sách Khai Trí , Sài Gòn 1971
18. Hoàng Hữu Các, Nhà tỉ phú bất hạnh, Nxb Lao động, 1996.
19. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa Học Xã Hội,1990.
20. Hoàng Thị Hồng Gấm (phiêm âm và chú thích), Nguyễn Thế Nghi - Tân biên truyền kỳ mạn lục - Tác phẩm Nôm thế kỷ XVI, Nxb Văn hóa Dân tộc, 2000.
21. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập III, Nxb Giáo Dục, 1998.
22. Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt Nam tự điển, Hà Nội, 1931, Mặc Lâm tái bản, 1968.
23. Hỏi về giá trị của cuốn Ngũ Thiên Tự, Diễn đàn Viện Việt học,Hán Việt, (viethoc.com).
24. Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên (dịch và giới thiệu), Tự vị Annam - Latinh (1772 – 1773), NXB Thành Phố Hồ Chí Minh, 1999.
25. Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc âm tự vị, Tom I-II Sài Gòn 1895-1896, Nxb Trẻ, tái bản 1998.
26. J.F.M Génibrel, Dictionnaire Annamite – Français, Deuxième édition, Tân Định, Saigon 1898, nguồn sách phổ biến từ books.google.com
27. Kiều Thu Hoạch, Lý Văn Phức, Ngọc - Kiều Lê Tân truyện, Nxb Khoa Học Xã Hội, 1976.
28. Lê Anh Minh, Lược khảo Huỳnh Đình Kinh, Nxb Văn hóa - Thông tin, 2003.
29. Lê Văn Đặng (biên tập), Nhứt thiên tự (Hán-Nôm-Quốc ngữ), Ban Tu Thư Việt học xuất bản, 2002.
30. Lê Văn Quán, Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb Khoa học Xã hội, 1981.
31. Lê Xuân Mậu, Chuyện lai ghép từ Hán - Nôm, T/c Tài Hoa Trẻ, nguồn: http://www.cinet.gov.vn /Vanhoa/Vanhoc/vh-vietnam/tungu/hannom.htm
32. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb GD, H., 1997, trang 142–152. Nguồn từ: http://ngonngu.net/index.php?p=207
33. Nam Cao, Chí Phèo (1941), Tuyển tập Nam Cao, tập 1. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1997
34. Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Viện nghiên cứu Hán Nôm và EFEO, Nxb Văn Hóa, 1997.
35. Ngô Đức Thọ, Tây Dương Gia Tô bí lục (Ghi chép những chuyện kín của đạo Gia Tô Tây Dương), Nxb Khoa học Xã hội, 1981.
36. Nguồn tổng hợp về ca dao từ các website: http://e-cadao.com, http://cadao.org, http://vnthuquan.net, http://www.cadaotucngu.com.
37. Nguyễn Bỉnh, Ngũ thiên tự dịch Quốc ngữ, bản khắc in năm 1909, ký hiệu R.1554 (Nomfoundation.org).
38. Nguyễn Đình Hòa, Vietnamese-English dictionary. Charles E. Tuttle Co.: Pusblishers. Rutland, Vermont & Tokyo, Japan, 1966
39. Nguyễn Hữu Vinh, Ðặng Thế Kiệt, Nguyễn Doãn Vượng, Lê Văn Ðặng, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Ngọc Bích, Trần Uyên Thi, Tự điển chữ Nôm trích dẫn, Viện Việt Học ấn hành, 2009.
40. Nguyễn Khuê, Những vấn đề cơ bản của chữ Nôm, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1999.
41. Nguyễn Ngọc San, Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb Đại Học Sư Phạm (tái bản) 2003
42. Nguyễn Quang Hồng (chủ biên), Tự điển chữ Nôm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2006
43. Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt: Tiếng – Từ ghép – Đoản ngữ, Nxb ĐH&THCN, 1981.
44. Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb Khoa học Xã hội, 1979.
45. Nguyễn Thế, Phan Anh Dũng, Chinh phụ ngâm Hán Nôm hợp tuyển, Nxb Thuận Hóa, 2000.
46. Huỳnh Thị Hồng Hạnh, Cấu trúc ngữ nghĩa của vị từ có yếu tố sau biểu thị mức độ cao trong tiếng Việt, nguồn: http://www.khoavanhoc- ngonngu.edu.vn
47. Nguyễn Thị Trung Thành, Nhận xét về những từ ghép song tiết đẳng lập chỉ trạng thái tình cảm con người, Ngôn ngữ, số 15. 2001, nguồn:
http://www.vienngonnguhoc.gov.vn/?act=Science&do=Detail&nid=111
48. Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng, Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, 1997.
49. Nguyễn Tường Bách, Lưới trời ai dệt? Tiểu luận về khoa học và triết học, Nxb Trẻ Tp. HCM, 2004.
50. Nguyễn Văn Tố, Le Hoa tiên de Nguyễn Huy Tự trong Bulletin De La Société D’seignement Mutuel Du Tonkin- Tom XVI, N. 3-4 1936, Tân Dân 1937, nguồn tài liệu phổ biến của Thư viện Quốc gia Việt Nam http://dlib.nlv.gov.vn
51. Nguyễn Văn Xuân, Chinh Phụ Ngâm Diễn âm tân khúc của Phan Huy Ích, Nxb Văn Nghệ TP.HCM, tái bản, 2002.
52. Nguyễn Văn Thọ, Vạn Vật Đồng Nhất Thể, Nxb Nhân Tử Văn, 2002, nguồn: http://nhantu.net/TrietHoc/VVDNT/VVDNTphilo.htm
53. Nhất Hạnh, Phép lạ của sự tỉnh thức, Nxb An Tiêm 1976, nguồn thuvienhoasen.org
54. Nhữ Thành (dịch), Sử ký Tư Mã Thiên, Nxb Văn học, 1988.
55. Nhức nhối về vấn đề chủ nghĩa xét lại giáo điều, Diễn đàn lịch sử, nguồn: http://lichsuvn.info /forum/showthread.php?t=8376
56. P.J. Pigneaux, Dictionarium Anamitico - Latinum, (bản thảo viết tay) (1772-1773). Nguồn: bản pdf của NNT trong Diễn đàn VVH (viethoc.com)
57. Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên, Hồng Đức quốc âm thi tập, (in lần thứ hai có sửa chữa) Nxb Văn học, Hà Nội., 1982.
58. Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục [trích trong Đông Dương tạp chí từ số 24 đến 49 (1913-1914)] Phong Trào Văn Hoá xuất bản. Saigon 1972
59. Phan Khôi, Thần Chung 1929, Văn thư lưu trữ mở, nguồn: vi.wikisource.org
60. Tam thiên tự giải âm (ký hiệu R.468), Phú Văn Đường Tàng Bản, khắc in năm Tân Mão, 1831, (Nomfoundation.org)
61. Tam thiên tự giải dịch quốc ngữ (ký hiệu R.1667) Liễu Văn Đường Tàng Bản, khắc innăm 1915, (Nomfoundation.org)
62. Thanh Nghị, Từ điển Việt Nam, Nxb Thời thế, 1958, nguồn sách phổ biếntừ: songhuong.com.vn.
63. Thiều Chửu, Đuốc Tuệ, Hán Việt tự điển, H., 1942.
64. Tô Hoài, Ba người khác, Nxb Đà Nẵng, 2006.
65. Trần Đức Viên, Nông thôn miền núi - Những nghiên cứu hướng tới phát triển lâu bền, Nxb Nông nghiệp, 2001.
66. Trọng Toàn, Hương hoa đất nước, Nxb Trẻ, 1999.
67. Tuệ Hạnh(dịch), Tăng Triệu và tánh không học Đông phương, 1973, nguồn thuvienhoasen.org
68. Văn Tân (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa Học Xã Hội (in lần thứ 2), HN 1977
69. Viện KHXH 1985-1993 (dịch), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội, H., 1993.
70. Viện Sử học (dịch và phiên âm), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học Xã hội, 1976.
71. VietVanBook, Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, 2010.
72. Vũ Cao, Núi Đôi, Nxb Hà nội, 1990.
73. Xuân Lan (biên soạn), Thiên tự (văn) giải âm ( Nhất thiên tự), nhà in Văn Minh tái bản lần thứ hai, Hải Phòng, Hà Nội, 1914 (sachxua.net).
Nhận xét
Đăng nhận xét