Kinh nghiệm viết văn: HƠI VĂN
Kinh
nghiệm viết văn:
HƠI
VĂN
Khi
viết, một trong những điều tôi quan tâm nhất là hơi văn. Theo tôi, một bài văn
hay, ngoài các yếu tố khác, cần phải có một yếu tố này nữa, cực kỳ quan trọng:
“nhất khí quán hạ”. Nghĩa là từ đầu đến cuối phải liền mạch. Xin nói ngay, khái
niệm “nhất khí quán hạ” đã có từ lâu. Tuy nhiên, phần lớn nó chỉ được dùng
trong thơ: Nó là cơ sở để người xưa xây dựng bố cục gồm bốn phần Khai, Thừa,
Chuyển và Hiệp trong thơ Đường luật truyền thống. Ở đây, tôi chỉ nói về văn
xuôi, chủ yếu là văn xuôi nghị luận.
Tôi
biết có nhiều người viết theo kiểu lắp ghép. Hôm này, rảnh, họ viết vài ba
đoạn. Hôm khác, nhân đọc một cuốn sách nào đó, nổi hứng, họ viết thêm vài ba
đoạn khác. Những đoạn ấy nhiều khi không có quan hệ gì mật thiết với nhau cả.
Cuối cùng, họ ráp tất cả lại thành một bài. Thỉnh thoảng có những bài hay. Thật
hay.
Biết
hay, nhưng tôi thì tôi chịu. Không cách gì tôi viết như vậy được. Viết, tôi
thường viết một lèo từ đầu đến cuối. Bài ngắn thì viết trong vài ba giờ. Bài
dài hơn, vài ba ngày. Dài hơn nữa, có thể vài ba tuần, thậm chí, vài ba tháng.
Nhưng bao giờ cũng liên tục. Bị ngắt quãng lâu, mất trớn, tôi thường bỏ luôn.
Muốn viết tiếp, cũng không viết tiếp được. Có lúc, viết xong, chợt loé lên một
ý hay hay hoặc đọc sách, tìm ra thêm một tư liệu thật thú vị liên quan đến đề
tài của bài viết, muốn thêm vào; nhưng sau khi thêm vào, thấy ý văn như bị
lệch, nhịp văn như bị gãy, tôi luôn luôn lựa chọn: Thà mất đi một ý hay một tư
liệu nhưng giữ được sự “nhất khí”.
Tôi
thích bài văn giống như một đường kiếm: Từ lúc rút ra khỏi vỏ đến lúc vung lên,
hạ sát đối thủ, rổi đút lại vào vỏ, nó chỉ đi một đường. Loáng một cái là xong.
Muốn
giữ được sự nhất khí, cần nhất là sự mạch lạc trong lập luận và sự thống nhất
trong giọng điệu.
Về
sự mạch lạc, giữa các câu trong đoạn và giữa các đoạn trong bài cần phải có
quan hệ thật chặt chẽ với nhau. Mỗi câu hay mỗi đoạn phải vừa là sự tiếp tục
vừa là sự khai triển của câu hay đoạn trước đó. Không có sự khai triển, hơi văn
sẽ bị quẩn. Không có sự tiếp tục, hơi văn sẽ bị đứt. Một bài văn nhất khí là
một bài văn, thứ nhất, không có câu hay đoạn nào thừa hay lệch; và thứ hai, tất
cả đều được nối kết lại với nhau thành một chỉnh thể thống nhất. Bảo đảm sự
chặt chẽ trong quan hệ giữa các câu và các đoạn, thật ra, không khó. Chỉ cần
tính duy lý và sự thận trọng. Nói chung, có một nguyên tắc: Tư duy mạch lạc thì
viết văn cũng mạch lạc; cái gì sáng trong trí thì cũng rõ trong câu chữ. Ở
phương diện này, luyện viết văn thực chất là luyện khả năng lý luận.
Lập
luận mạch lạc, giọng điệu trong bài cũng cần phải thống nhất. Đó phải là tiếng
nói của một người trong một tình huống nhất định với một thái độ nhất định.
Giọng, có khi ẩn, có khi hiện. Người thì thích nó ẩn để bài viết có vẻ trung
tính, đáp ứng một trong những yêu cầu quen thuộc của loại văn nghị luận: khách
quan. Người thì thích nó hiện để bài viết trở thành hoặc hùng hồn hoặc tha
thiết, từ đó, tác động trực tiếp đến cảm xúc của người đọc. Riêng tôi, tôi
không thích che giấu cái giọng của mình. Bởi vậy, tôi thích dùng những câu tu
từ vốn, bình thường, tương đối ít được các cây bút chuyên về nghị luận sử dụng.
Khác với các câu ngữ pháp vốn lúc nào cũng tròn trịa hay ngay ngắn với những
chủ ngữ và vị ngữ, câu tu từ thường là câu đặc biệt hoặc được đảo ngữ hoặc cắt
ngắn, chỉ có vị ngữ hoặc một phần của vị ngữ. Ví dụ, trong bài “Từ nhà phê bình đến một blogger” đăng trên blog này vào
ngày 17 tháng 7, 2009, tôi dùng nhiều câu đặc biệt (không có chủ từ, như “Ở
Việt Nam, dạy học”, “Như cái số, đành chấp nhận”, “Ừ thì làm” hoặc nhiều ngữ
khí từ, như “A!” hay trợ từ, như “vui chứ?”):
“Chỉ
có điều, sau khi nhận ra mình nói dở, tôi chỉ thích chọn những nghề…ít nói
nhất. Vậy mà tôi lại sa vào nghề dạy học. Cả đời tôi dạy học. Ở Việt Nam, dạy
học. Ra đến nước ngoài, cũng dạy học. Như cái số, đành chấp nhận. Nhưng nếu có
cái nghề thứ hai nào cần làm và có thể làm, tôi dứt khoát chọn cái nghề ít nói;
thậm chí, không nói: càng tốt.
May, nó tới: lần này Ban Việt ngữ đài VOA không mời tôi làm phát thanh viên mà lại làm một…blogger!
May, nó tới: lần này Ban Việt ngữ đài VOA không mời tôi làm phát thanh viên mà lại làm một…blogger!
A!
Cái chuyện này mới thú vị đấy. Chữ blog mới đến độ chưa có trong tiếng Việt.
[…]
Được
tham gia vào diễn đàn có tính tiên phong như thế, vui chứ?
Ở
diễn đàn ấy, mình chỉ cần viết chứ không cần nói: càng vui nữa.
Thế
thì tôi đâu có lý do gì để từ chối. Ừ thì làm. Từ nhà phê bình đến blogger,
không chừng đó cũng sẽ là cuộc hành trình chung của nhiều người, sau này: một
cuộc xuống đường của trí thức.”
Tự
sự, viết thế; phê bình, tôi cũng viết thế. Ví dụ, phân tích chữ “nhuộm” trong
câu “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” trong bài “Tương tư” của Nguyễn Bính,
tôi viết, cũng bao gồm nhiều câu tu từ:
“Thử
bỏ đi động từ ‘nhuộm’ hoặc thế động từ ‘nhuộm’ bằng một từ nào khác, ví dụ như
chữ ‘giờ’, ‘lá xanh giờ đã thành cây lá vàng’, thì câu thơ sẽ ra sao? Nó sẽ nhẹ
hẳn đi. Tức khắc. Không có chữ ‘nhuộm’, câu thơ chỉ có một nghĩa: hiện tượng
chuyển mùa; trước là mùa xuân (hay mùa hạ?), nay là mùa thu. Thêm chữ ‘nhuộm’,
một động từ, ngoài ý nghĩa trên, câu thơ còn có ý nghĩa khác: đó là quá trình
chuyển mùa. Giữa hai thời điểm xuân và thu, xuất hiện đôi mắt người con
trai không ngừng khắc khoải trông ngóng. Anh đếm từng ngày, từng ngày. Ròng rã.
Anh quan sát mùa thu về, từ từ, từ từ. Một chiếc lá vàng. Hai chiếc lá vàng. Ba
chiếc lá vàng. Rồi cả cây, điệp điệp lá, vàng hực lên. Cho nên, sau chữ “nhuộm”
là tấm lòng của người con trai tương tư đang mòn mỏi. Bài thơ, như vậy, cứ xoáy
sâu vào khoảng cách. Từ khoảng cách vời vợi của không gian đến khoảng cách đằng
đẵng của thời gian.”
Viết
văn có tính luận chiến, tôi càng hay sử dụng các câu tu từ. Ví dụ một đoạn
trong bài “Chủ nghĩa mình-thì-khác”:
“Biểu
hiện của chủ nghĩa mình-thì-khác rất dễ nhận thấy. Nó bàng bạc ở khắp nơi. Từ
trong nước ra đến tận hải ngoại. Từ giới bình dân đến cả giới trí thức. Từ
những giao tiếp hàng ngày đến những sinh hoạt chuyên môn. Ở đâu giọng điệu của
nó cũng khá giống nhau. Về phương diện chính trị, nước người ta dân chủ và tôn
trọng nhân quyền ư? Ừ, thì cũng hay, nhưng... mình-thì-khác. Về phương diện xã
hội, mọi thứ ở người ta đều được tổ chức một cách duy lý và hợp lý ư? Ừ, thì
cũng hay, nhưng... mình-thì-khác. Về phương diện nghệ thuật, người ta hết lao
vào thử nghiệm này đến thử nghiệm khác khiến thế giới sáng tạo lúc nào cũng
trăm hoa đua nở ư? Ừ, thì cũng hay, nhưng... mình-thì-khác. Về phương diện văn
học, từ lâu người ta đã bước vào giai đoạn hậu hiện đại chủ nghĩa với những
quan niệm mới mẻ và vô cùng lý thú ư? Ừ, thì cũng hay, nhưng... mình-thì-khác.
Thậm chí, cả đến thơ tự do vốn đã phổ biến khắp nơi trên thế giới, ở Việt Nam
nó vẫn còn bị rất nhiều người, kể cả giới cầm bút, xem không phải là thơ. Lý
do? Tại... mình-thì-khác. Cả đến những yêu cầu tối thiểu đối với văn chương
nghị luận, từ tính chính xác trong tư liệu đến tính nhất quán trong lập luận và
tính nghiêm túc trong cách thức diễn đạt, chúng ta cũng bất chấp. Lý do:
mình-thì-khác.”
Trong
cái gọi là các câu tu từ, tôi hay sử dụng nhất là cấu trúc câu bắt đầu bằng một
liên từ. Thường, cho đến nay, liên từ (hay còn gọi là kết từ, quan hệ từ hoặc
từ nối) thường được dùng để nối liền các từ hoặc ngữ hoặc mệnh đề trong nội bộ
một câu. Chỉ trong một câu mà thôi. Những liên từ quen thuộc gồm có: của (Trời
xanh đây là của chúng ta), bởi/vì/do/tại/ (Bởi ông hay quá, ông không đỗ /
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông), để (Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi), mà (Nắng
Sài Gòn anh đi mà chợt mát), với (Với áo mơ phai dệt lá vàng), thì (Thì con
người ấy ai cầu mà chi), v.v… Rất hiếm khi liên từ được dùng ngoài phạm vi một
câu. Có. Nhưng hiếm. Thật hiếm. Riêng tôi, tôi sử dụng thật hào phóng. Những
câu như “Mà thật., “Thì cũng đúng.”, “Chứ không phải sao?”, v.v… xuất hiện khá
nhiều. Thường thì chúng đứng để đầu một đoạn văn. Để cho hơi văn từ đoạn trên
có thể chảy tràn xuống đoạn dưới.
Ví
dụ hai đoạn trong bài “Báo Tết và văn hoá Tết” in trong cuốn Văn hoá văn
chương Việt Nam (Văn Mới xuất bản, 2002) của tôi:
“Nhưng
đặc điểm nổi bật nhất ở các tờ báo Tết chính là nền văn hoá nhìn lại. Báo Tết,
thực sự là báo Tết, trong cảm quan của cả người viết lẫn người đọc, bao giờ
cũng là một sự nhìn lại, hoặc chủ yếu là một sự nhìn lại. Nhìn lại một năm.
Nhìn lại một giáp. Nhìn lại một thế kỷ. Nhìn lại những thành công và những thất
bại của một đất nước hoặc một lãnh vực nào đó. Nhìn lại những nếp cũ, những tục
cũ. Nhìn lại những vang bóng một thời. Nhìn lại. Số báo Tết nào cũng thường
nặng trĩu quá khứ và cũng man mác tâm sự u hoài.
Thì
cũng hay thôi. Mỗi số Tết là một dịp ôn bài. Ôn tập thể. Và thú vị. Như nhắp
một hớp trà hay nhâm nhi một miếng mứt. Có lẽ phần lớn những kiến thức của
chúng ta về phong tục tập quán của dân tộc cũng như những dấu mốc quan trọng
trong lịch sử đất nước nếu không đến từ, thì cũng được củng cố bởi, các dịp ôn
bài như thế.”
Hoặc một đoạn trong bài “Tiến tới một nền cộng hoà văn chương”:
Hoặc một đoạn trong bài “Tiến tới một nền cộng hoà văn chương”:
“Có
thể nói số phận văn học Việt Nam gắn chặt với một chữ: chữ "làng".
Làng văn và làng thơ. Chữ "làng" ấy, nghe thì rất thân thương, nhưng
chính vì vẻ thân thương như thế, người ta dễ quên nó là một khái niệm cũ. Không
những cũ, nó còn lỗi thời. Không những lỗi thời, nó còn có hại: nó khiến chúng
ta lẫn lộn giữa kỷ niệm và hiện thực, từ đó, buộc chặt tâm hồn của chúng ta vào
những hình ảnh đã hoá thạch trong quá khứ, làm chúng ta mất hẳn khả năng thích
nghi và thay đổi. Hậu quả là, bước sang thế kỷ 21, sinh hoạt văn học Việt Nam,
từ trong lẫn ngoài nước, vẫn thấp thoáng hình ảnh của những sinh hoạt làng xã
ngày xưa.
Thì
cũng thói quen dị ứng với mọi cái mới. Thì cũng tâm lý chiếu trên chiếu dưới.
Thì cũng những cung cách hào lý, ở những người ít nhiều thành công và thành
danh; cung cách trương tuần, ở những kẻ bất tài và nhiều tham vọng; cung cách
thằng mõ, ở tuyệt đại đa số những kẻ chỉ có một đam mê duy nhất: lặp lại không
mệt mỏi những điều ai cũng biết. Thì cũng một thứ văn hoá: văn hoá làng.”
Cấu
trúc câu bắt đầu với chữ “thì” như thế được lặp lại lần nữa trong bài “Vài ý
nghĩ về phê bình văn học”:
“dù
đứng bên này hay bên kia ‘chiến tuyến’, dù ở trong nước hay ở ngoài nước, dù
theo cộng hay chống cộng, giới cầm bút Việt Nam cũng thường có một số thói quen
giống nhau, một số cách suy nghĩ và cảm xúc giống nhau, đều có một số ưu điểm
khá giống nhau và đều gặp phải một số những trở ngại và những hạn chế giống
nhau. Thì cũng khát vọng làm những chứng nhân của lịch sử. Thì cũng niềm tin là
văn chương, muốn cao cả, phải phục vụ một cái gì; muốn trường cửu, phải gần gũi
với đại chúng và được đại chúng chấp nhận; muốn cảm động, phải xuất phát từ đáy
lòng, nghĩa là phải thiết tha và thành thực; muốn đẹp, phải có thật nhiều...
chất thơ; và muốn mới lạ, phải thêm chút ngổ ngáo trong ý tưởng, chút khinh bạc
trong giọng điệu và chút gân guốc trong ngôn ngữ. Thì cũng lửng lơ giữa truyền
thống và hiện đại: thích làm ra vẻ ‘Tây’ để che giấu một tâm hồn thật ‘chân
quê’.”
Khi
viết những câu có cấu trúc lặp lại như vậy, bao giờ tôi cũng thích để các ý
mạnh phía sau; càng về sau càng mạnh; ở câu chấm dứt là một ý mạnh nhất.
Thích
thế nên viết thế. Còn hay hay dở lại là chuyện khác.
Tuỳ
sự đánh giá của bạn đọc.
Nguyễn Hưng Quốc
Nhận xét
Đăng nhận xét