CÁCH BÌNH GIẢNG VĂN
CÁCH
BÌNH GIẢNG VĂN
Giảng
bình là một phương pháp giảng dạy quen thuộc trong hệ thống phương pháp dạy học
văn chương truyền thống .Truyền thống giảng bình trong
đời
sống văn hoá dân tộc ta đã trở thành một truyền thống tốt đẹp .Thời
xưa các cụ vẫn thường bình theo lối xướng
hoạ, các sĩ trỉ tập trung lại các văn miếu để bình. Dạy văn chú ý tới
giảng bình là để tiếp tục phát huy truyền thống bình văn của ông cha ta từ xưa.
Mặt khác có giảng bình thì mới làm cho học sinh có tâm hồn trong sáng
hơn, nuôi dưỡng tâm hồn nhuần nhị để học sinh có hứng thú tao nhã đó.
Từ lý do tiên tổ khoa học xã hội đã bàn bạc thảo luận và thấy cần phải quan tâm
nhiều đến phương pháp giảng bình trong dạy học văn cho nên tổ chọn chuyên đề
này để nghiên cứu nhằm đề cao, tôn vinh sâu sắc năng lực diễn đạt bằng lời của
học sinh, đồng thời cũng muốn nghiên cứu cặn kẽ chu đáo năng lực diễn đạt giàu
tính nghệ thuật, giàu tính văn chương của người thầy .
Mục đích của người bình là làm sao truyền cảm ý kiến của mình về tác phẩm văn
chương đến được người nghe, làm cho người nghe cùng suy nghĩ như mình phù
hợp với “ ý định và nghệ thuật” của nhà văn . Có nhiều cách thức giảng bình :
bình bằng hồi ức, một kỉ niệm riêng có liên quan đến một yếu tố được bình làm
cho yếu tố sống dậy, có thể bình bằng cách so sánh với những câu thơ khác hoặc
bằng người khác, cũng có khi bình bằng lời đọc diễn cảm đoạn thơ, câu thơ...Sau
đây là những cách thức bình cụ thể.
1
Bình bằng một hồi ức
Giáo
viên kể cho học sinh nghe những kỷ niệm, những xúc động của chính bản
thân mình khi được đọc tác phẩm đó. Ví dụ giảng bình bài : “Cảnh khuya”
giáo viên kể: “ Tôi còn nhớ mãi cái sung sướng của tối, lần đầu tiên được
nghe hai câu thơ:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng
lông cổ thụ bóng lồng hoa
Sung
sướng vì được nghe lại những câu thơ hay, nhưng sung sướng hơn nữa vì
những câu thơ hay ấy lại là của Bác. Cô đã đọc rất nhiều vần thơ về
thiên nhiên từ ánh trăng thương nhớ của Nguyễn Du, cảnh ao
thu trong veo của Nguyễn Khuyến, đến con nai vàng ngơ ngác của Lưu
Trọng Lư, cánh có phân vân của Xuân Diệu, ánh trăng ngẩn ngơ
buồn của Huy Cận. Nhưng đọc bài thơ “ Cảnh khuya’ của Bác thấy thơ
Bác, thơ của một người chiến sĩ cách mạng sao thấy thiên nhiên thơ
Bác thơ mộng quá, yêu kiều quá. Kỷ niệm đó đối với tôi thật
sâu sắc và mỗi lần đọc bài thơ này tôi thấy xúc đông bồi hồi trước tâm
hông nghệ sĩ rất đẹp đẽ của Người.
Cách
bình trên tạo cho học sinh sự hứng thú muốn tìm hiểu cái hay cái đẹp của tác
phẩm. Nhưng lời tâm sự, chuyện riêng tư phải có ý nghĩa tiêu
biểu, tích cực
2
Bình bằng lời khen
Giáo
viên có thể khen trực tiếp về giá trị bài thơ, áng văn ấy. Ví dụ:
Khi bình về thơ Xuân Thuỷ, Hoài Thanh nhận xét: “Với Xuân
Thuỷ hìng như không có một khoảng cách nào giữa anh và người đọc thơ anh. Anh
làm thơ như nói chuyện.Có lẽ chỉ có anh mới có được những câu thơ:
Chiều nay Xuân Thuỷ thăm Ngư Thuỷ
Trời biển mênh mông đất
Quảng Bình
Cái
hay là làm thơ như đanh nói chuyện mà vẫn thơ. Trong cách bình này giáo viên
phải tránh sa vào bình luận xã hôi học.
3
Bình theo con đường đối chiếu
so sánh
Giáo
viên khi bình văn thơ phải có nhiều vốn liếng về sự hiểu biết rộng rãi về sự
hiểu biết rộng rãi các tác phẩm thơ văn để tạo cho lời bình của mình có sức
nặng hơn. Đọc nhiều biết rộng giúp cho người bình đối chiếu được dễ dàng mà
sâusắc.
Ví dụ:
Khi
bình bài Thu Điếu của Nguyễn Khuyến (văn 9) giáo viên có thể nhắc lại quá trình
mấy trăm năn bài thơ thu của dân tộc để thấy giá trị, vị trí của những
vần thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ.
Khi bình trăng trong thơ Bác bài “Ngắm trăng”, “Cảnh khuya”, giáo
viên so sánh trăng trong thơ Bác và trăng trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến để
thấy được vẻ đẹp độc đáo của vầng trăng trong thơ Người. Cách so sánh như vậy
làm giá trị bài thơ thêm nổi bật.
Phạm
vi so sánh đối chiếu các bài văn thơ không chỉ hạn chế trong mối quan hệ những
bài văn bài thơ, những câu văn câu thơ tương đồng có khi liên hệ đối
chiếu với thực tế cuộc sống hoặc tâm trạng cuộc đời của tác giả để làm lời bình
câu thơ thêm tăng sức thuyết phục.
Chẳng
hạn khi bình câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu “làm ơn há dễ trông nguời trả ơn” ta
đối chiếu ý nghĩa câu thơ với cuộc đời thực, với tư tưởng nhân nghĩa của
Đồ Chiểu thì lời bình cành có sức nặng đặc biệt làm cho người đọc tin tưởng ở
tiếng nói của nhà phê bình.
Cần
nói thêm trong bình giảng chỉ khi cần thiết cũng phải chê nhưng mỗi tác phẩm
văn chương khi được chọn vào sách giáo khoa để giảng dậy thường đánh tin
cậy, có giá trị nên khi chê không nên làm tổn hại đến tình cảm của học
sinh đối với tác giả.
Người dạy văn khi bình giảng phải có thái độ trân trọng và tế nhị. Phũ phàng
hay khinh bạc trong văn chương là chẳng có lợi cho giáo dục.
Sau
đây là việc vận dụng phương pháp giảng bình vào tác phẩm ‘Lão Hạc” của Nam Cao
văn học 8- tập 2.Với thời gian hai tiết giáo viên giúp học sinh hiểu được nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm một cách nhanh nhất. Thông qua việc đọc,
việc phân tích, bình giảng giáo viên làm cho học sinh được phẩm chất và
cuộc đời Lão Hạc. Một lão nông dân nghèo khốn khổ nhưng tần tảo làm ăn,
giàu tình cảm, giàu lòng tự trọng. Từ đó học sinh hiểu được số phận cuộc
đời của người nông dân Việt Nam trước cách mạng thánh 8 và có thái độ thông cảm
với họ.
Lão Hạc là một câu chuyện cảm động về đời sống của những người nông dân trước
cách mạng tháng tám. Họ là những người nhân hậu mà cuộc sống của học lại bi
thảm, nhưng dù thế nào họ vẫn giữ tấm lòng nhân hậu.Vì vậy công việc của
giáo viên là phải giúp học sinh khám phá những vẻ đẹp ấy. Giáo viên phải lựa
chọn các chi tiết, những điểm sáng của tác phẩm để bình. Truyện “Lão Hạc”
có nhiều chi tiết hay cảm động, có nhiều chi tiết đáng bình. Ta có thể
bình tấm lòng đôn hậu của Lão Hạc khi phải bán chó, lão đã khẻo, dằn vặt
đau đớn khi trót lừa một con chó. ta cũng có thể bình nghệ thuật văn xuôi
của Nam Cao hoặc cũng có thể bình đoạn cuối cùng trong tác phẩm “Lão Hạc”:
“Lão
Hạc ơi, lão hãy yên lòng mà nhắm mắt, lão đừng lo gì cho mảnh vườn
của lão...” song những chi tiết này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tự bình
ở nhà. Còn chi tiết để bình trên lớp là cái chết của Lão Hạc để làm nổi bật
nhân cách cao đẹp của lão
Có thể giảng
bình một cách khái quát như sau :
Chỉ
có 5 câu văn với nhưng từ ngữ được chọn lọc gợi tả, tác giả đã tả “Cực độ” cái
chết dữ dội của lão Hạc. Trên đời này có muôn vàn cái chết, lão Hạc đã chọn cái
chết cho mình cái chết đau đớn, bằng cách ăn bả chó của Bình Tư .
Tại
sao cùng cái chết mà lão Hạc không chết một cách khác cho thanh thản ? Tại sao
cùng cái chết mà lão Hạc không chết một cách cho thanh thản ?Tại sao lại không
thắt cổ như Lang Rận, không tự đâm chết mình như Chí Phèo hoặc nhịn đói
dài ngày để rồi ốm rồi chết mà lại ăn bả chó để hai mắt của lão long lên sòng
sọc ? Loã chu chéo vật vã hai tiếng đồng hồ mới chết ?Phải chăng lão Hạc chết
như vậy để tự trừng phạt trước người bạn yêu quí của mình là cậu Vàng ? Có như
vậy lão với nhẹ lòng chăng? Quả đúng như vậy, lão chết như là một lối
thanh minh với cậu Vàng. Lão đã sống xứng đáng ngay cả với con chó. Nhưng lão
Hạc đâu chỉ chết vì con chó mà cái chết của lão còn là vì đứa con yêu dấu của
mình, lão chết để trọn bổn phận làm cha của lão đối với con. Cái chết dữ
dội như một con chó dại ấy lại là cái chết của người cha thương con rất
mực, thương con đến nỗi thà chết chứ không chịu ăn tiêu vào tài sản của
con. Lão Hạc chết là để dành phần cho con sống. Quả là một người cha tuyệt vời
!
Cái chết của lão Hạc được đưa ra hết sức bất ngờ, vừa ai oán, vừa
giống như một sự tất yếu. Và cái chết của lão là cái mốc giải mà những băn
khoăn về nhân cách và tình cảm của lão .“ Chết trong còn hơn sống đục”. Cái
chết dữ dội, thử thánh của người nông dân lương thiện có ý nghĩa tố cáo
sự tàn ác của chế độ phong kiến đã đẩy người nông dân tới bước đường cùng, muốn
giữ nhân cách họ chỉ có con đường chết. Cái chết của lão như là lời kêu cứu,
khẩn thiết đồng thời cũng là lời kết án của tác giả đối với xã hội đương thời .
Hoặc giáo viên cũng có thể bình bằng việc mượn lời bình của người khác.
“Phải
đến khi chuyện Lão Hạc khép lại, ta mới thấy ớn lạnh .Thì ra toàn bộ câu chuyện
là một cuộc chuẩn bị để chết của một con người ! Lão Hạc cứ âm thầm nốt những
phần việc cuối cùng của một kiếp người để rồi tự sát! Vậy mà ông giáo và người
đọc đều không hay biết. Cái chết của là một cú giáng vào thói hồ đồ hờ hững và
cố chấp của chúng ta . Khi ta sáng mắt lên, hiểu ra tất cả những tính toán lo
liệu gàn dở lẩn thẩn của lão Hạc thực chất lại chứa đựng một phẩm người nguyên
sơ, thuần khiết, cao quý vô ngần thì đã muộn rồi ’’
(Chu
Văn Sơn).
Thế
rồi lão Hạc chết cái chết thật đau đớn dữ dội .Chỉ có ông giáo và Binh Tư hiểu
lão tự tử bằng bả chó .Một con người khổ cả lúc sống, khổ cả lúc chết.
Lão Hạc chết nhưng nhân cách đẹp của lão vẫn sống mãi trong lòng ông
giáo, trong lòng người đọc. Lão Hạc đúng là một khối vàng ròng nguyên
chất mà ta phải gạt bỏ những lớp đất mùn thô mộc, quê kệch mới tìm thấy”
(Nguyễn
Thanh Tú).
(Tài liệu giảng dạy)
Nhận xét
Đăng nhận xét