Từ dinh Chiêm đến dinh trấn Quảng Nam–[1]

 
Từ dinh Chiêm đến dinh trấn Quảng Nam–[1]

Năm 1602, Nguyễn Hoàng "đi chơi núi Hải Vân, thấy một dãy núi cao dăng dài mấy trăm dặm nằm ngang đến bờ biển. Chúa khen rằng: Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận Quảng. Liền vượt qua núi, xem xét hình thể dựng trấn dinh ở xã Cần Húc (sau là xã Thanh Chiêm), xây kho tàng, chứa lương thực, sai hoàng tử thứ sáu trấn giữ" (Quốc sử quán, Đại Nam thực lục, trang 42).
 
Dinh này có tục danh là Dinh Chiêm, cũng như các Dinh Cả - Dinh Ngói - Dinh Cát ở phía bắc đèo Hải Vân. Hoàng tử thứ sáu tên là Nguyễn Phước Nguyên khi ấy đã 39 tuổi và sau này kế nghiệp Nguyễn Hoàng, được mệnh danh là Chúa Sãi vì tính nết hiền hậu như Đức Phật.
 
Đương thời, Đàng Ngoài gồm 11 xứ, Đàng Trong gồm 2 xứ là Thuận Hóa và Quảng Nam. Sau năm 1604, đổi huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong xứ Thuận Hóa làm phủ Điện Bàn thuộc xứ Quảng Nam và năm 1611 đặt phủ Phú Yên, thì xứ Quảng Nam rất rộng gồm cả thành phố Đà Nẵng, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên ngày nay. Dinh Chiêm hay dinh trấn Quảng Nam cai quản suốt từ đèo Hải Vân đến đèo Cả, khắp vùng bao la trù phú đang độ phát triển kỳ diệu, nên người nước ngoài tôn xưng là Quảng Nam quốc.
 
Trấn thủ Nguyễn Phước Nguyên khuếch trương Hoài Phố (Tây dương phiên âm là Faifo và nay là Hội An) cho người nước ngoài như Nhật Bản, Trung Quốc, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh... vào buôn bán và mở thương điếm. Thế nên Hoài Phố đã trở thành một hải cảng thương mại sầm uất và quan trọng bậc nhất trong cõi Á Đông.

Trên mỗi thương thuyền Bồ Đào Nha, thường có một linh mục lo việc đạo cho thuyền viên và hành khách đông tới cả trăm người. Khi đậu ở bến nào lâu, thì linh mục cũng có dịp truyền giáo cho người địa phương. Nhưng đó là trường hợp hãn hữu, vì không thuộc nhiệm vụ mình.
 
Thuyền trưởng Ferdinand de Costa sau khi đậu bến Hoài Phố về Macao, báo cho Bề trên dòng Tên là tại Hoài Phố có nhiều thương gia Công giáo Nhật thiếu linh mục lo phần hồn và tại Đại Việt nói chung chưa có giáo sĩ giảng đạo. Bề Trên dòng Tên liền phái linh mục Francisco Buzomi (Ý), linh mục Điêgô Carvalhô (Bồ) và trợ sĩ Antôn Đias (Bồ) sang Đàng Trong; họ tới Cửa Hàn (Đà Nẵng) ngày 18.1.1615 rồi tới Hoài Phố lo việc mục vụ chủ yếu cho thương gia Nhật Bản. Năm 1616, linh mục Carvalhô sang Nhật truyền giáo, nhưng có trợ sĩ Phaolô Satiô (Nhật) đến giúp việc. Năm 1617 lại có thêm linh mục Francisco de Pina (Bồ) và trợ sĩ Giuse (Nhật) tới tăng cường.
 
Chỉ trong thời gian ngắn, Buzômi được phép trấn thủ Nguyễn Kỳ (con cả Chúa Sãi) xây dựng một nguyện đường tại Dinh Chiêm với sự hỗ trợ đắc lực của bà quý phái tân tòng Gioanna. Bà còn giúp làm cho mấy nơi cư trú và cầu nguyện khác nữa. Bề trên ở Macao biết tin đó, bèn cử Pina và Giuse - những người còn trẻ và có nhiều khả năng về ngôn ngữ - sang giảng đạo lần này chủ yếu cho dân Việt Nam.
 
Tới nơi, Pina nỗ lực học tiếng Việt, chỉ trong sáu, bảy tháng đã có thể thuyết giáo bằng tiếng Việt, không như các linh mục khác vẫn phải giảng đạo qua thông ngôn. Năm 1618 có thêm 2 linh mục Christoforo Borri và Pedro Marques tới Quảng Nam. Borri sẽ phụ trách giáo điểm Nước Mặn (Quy Nhơn) và Marques làm bề trên Hoài Phố. Buzomi coi sóc giáo điểm Cửa Hàn (Turon). Còn Pina - người duy nhất thông thạo tiếng Việt thì thay đổi chăm nom nhiều nơi khác nhau, mà quan trọng nhất là tại giáo điểm Dinh Chiêm, nơi cần có đại diện giỏi ngôn ngữ để giao thiệp với dinh trấn Quảng Nam.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến