Kỳ 5:
Đại sứ Mỹ G.Martin giải thích: Vì sao phải ưu tiên di
tản phi công VN trước?
Không quân VNCH thời còn sung sức có quân số hơn 60.000 người
- gồm 5 sư đoàn tác chiến với hơn 500 phi cơ các loại - trong đó có phi đoàn
tình báo kỹ thuật và biệt đoàn đặc vụ 314...
...Ở giai đoạn tan rã (4.1975), lực lượng còn lại của quân chủng này vẫn
làm đại sứ Martin phải nhiều đêm mất ngủ, vì nếu họ quay mục tiêu oanh kích về
phía người Mỹ trong những giờ cuối của cuộc chiến, hậu quả sẽ ra sao ?
Vì lẽ đó, Martin phản ứng quyết liệt về “những kế hoạch điên rồ” (xem Kỳ
4) của Nhà Trắng, thuyết phục để tổng thống Ford đồng ý với mình về chủ trương
di tản người Việt, đồng thời xét lại các “crazy plans” đầy bất trắc.
Cuối cùng, TT. Ford ngả về phía Martin và triệu tập phiên họp kín tại Nhà
Trắng với những thành viên được chỉ định trước, trong đó có các thượng nghị sĩ
thuộc Ủy ban Đối ngoại, để cảnh báo về hậu quả tiêu cực của phương án “chỉ di tản
người Mỹ” và “bỏ mặc người Việt” (hoặc di tản người Việt với số lượng ít ỏi,
chiếu lệ). Giả thử phương án kia thực thi, sẽ không tránh khỏi phản ứng quyết
liệt của không quân Nam Việt Nam. TT. Ford trong hồi ký của mình (xuất bản
1979), nhắc lại:
- Chúng tôi cảm thấy rằng một cuộc di tản vội vã sẽ có những hậu quả trầm
trọng. Một tình trạng hoảng hốt lớn tại khu thủ đô miền Nam (Sài Gòn) sẽ có thể
phát sinh, và trong sự chua cay là đã bị phản bội, quân đội miền Nam (Việt Nam
Cộng hòa) có thể quay súng (bắn) vào người Mỹ !.
Nguyễn Tiến Hưng viết, TT. Ford nói rõ thêm: “Nếu rút hầu hết người Mỹ ra
cùng một lúc sẽ làm cho người Việt Nam nghĩ rằng Mỹ đang tháo chạy, sẽ có thể
gây ra những cuộc tấn công vào người Mỹ”. Cuối cuộc họp, TT. Ford yêu cầu các
nghị sĩ có mặt đừng để báo chí biết “phiên họp chỉ bàn tới chuyện di tản” - mà
cần thông báo chung chung là: “phiên họp bàn chuyện ổn định tình hình tại miền
Nam Việt Nam” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd Kỳ 2).
Sau phiên họp trên, từ Sài Gòn, Martin đưa khá nhiều phi công thuộc Quân
lực Việt Nam Cộng hòa và gia đình của họ ưu tiên ra đi trước: “tất cả khoảng
2.000 người tới phi cảng Atapao ở Thái Lan” - với mục đích: “giảm thiểu khả
năng trả thù và đụng độ (của không quân Sài Gòn) với lực lượng Mỹ”. Martin cảnh
cáo “nếu cảm thấy bị bỏ rơi quá tàn nhẫn, phía Việt Nam sẽ trút sự giận dữ lên
đầu những người Mỹ còn lại”. Ông giải trình trước Quốc hội:
- Không quân Việt Nam sẽ bắn rơi các máy bay vận tải của mình (máy bay chở
người Mỹ di tản khỏi Sài Gòn - GH) khi chúng ta bỏ rơi chiến hữu, phó mặc họ
cho (quân đội) Bắc Việt (Graham Martin - Testimony, tr. 548 - chú thích của
Nguyễn Tiến Hưng, sđd Kỳ 2).
Martin nhận định phi công là phần tử nắm trong tay phương tiện cơ động
nhanh chóng và nguy hiểm nhất (máy bay) và có cơ hội cũng như điều kiện để trút
“uất hận” lên bất cứ nơi nào tập kết người Mỹ (chuẩn bị di tản) và nếu phi công
Việt Nam Cộng hòa bắn rơi ba bốn chiếc máy bay vận tải Mỹ thì “chắc chắn là sẽ
có nhiều trong số 6.000 người Mỹ phải chết, thêm vào đó là số thương vong không
thể lường của quân đội hai bên - dĩ nhiên (lúc ấy) không lực từ Đệ thất hạm đội
(hạm đội 7) sẽ vào uy hiếp (đánh trả), dẹp tan hết mọi cuộc tấn công. Nhưng (hậu
quả) là Sài Gòn sẽ đổ nát như Baghdad và bao nhiêu người dân (vô tội) sẽ là nạn
nhân?” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd Kỳ 2). Martin giải bày:
- Tôi có một sự lo nghĩ trong lòng nhưng nó đã được giải quyết trước ngày
cuối cùng của cuộc di tản, đó là một phần đông không quân Việt Nam đã được bay
sang căn cứ Utapao ở Thái Lan, như vậy là đã di chuyển được khả năng (chiến đấu)
của một số phi công chống đối trên bầu trời - họ có lẽ là phần tử uất hận nhất
trong các quân chủng (Graham Martin, Testimony, tr. 586 - NTH).
Những lời trên của Martin phù hợp với hồi ký của tướng Nguyễn Cao Kỳ (từng
làm Tư lệnh Không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa):
“Cộng sản biết rằng mất sân bay thì Sài Gòn cũng mất” nên đã mở đầu đợt
đánh chiếm Sài Gòn vào giai đoạn đỉnh điểm bằng động thái đánh bom Tân Sơn Nhất:
“Ngày 28.4.1975, quả bom hạng nặng đầu tiên rơi cách nhà tôi 300 mét. Lúc ấy có
gần 400 người tụ tập ở đó, hay trên những bãi đất xung quanh. Họ là những gia
đình binh sĩ xin chỗ máy bay (để rời Việt Nam). Nhiều người quyết định ngủ đêm
ngay tại văn phòng, hoặc những ngôi nhà gần bên. Quang cảnh giống như một trại
tị nạn. Lúc những quả bom đầu tiên làm rung chuyển nhà tôi, một anh phi công chạy
vào phòng khách kêu lớn: “Tôi cất cánh đây !”.
Nguyễn Cao Kỳ cũng hét: “Đồng ý. Đi đi”!
Thế là anh phi công kia lao đến chiếc máy bay gần nhất. Cùng lúc, tướng Kỳ
phóng lên một chiếc xe jeep cùng với thiếu tá thân cận của mình nổ máy chạy ra
đường băng để xem thiệt hại tới mức nào. Tướng Kỳ thuật lại, lúc ấy:
“Căn cứ vắng vẻ im lặng, khác lạ, trái ngược hẳn với quang cảnh nhộn nhịp
thường ngày. Ai nấy đều chạy vào hầm trú ẩn và xe jeep của chúng tôi là vật duy
nhất mà người ta thấy đang di chuyển (trên sân bay). Các phi công cộng sản chắc
đã phát hiện ra chúng tôi, vì lẽ các máy bay của họ ở trên cao lượn vòng vòng rồi
bắt đầu bắn xuống chúng tôi”.
Kỳ xuống xe, nhảy vào một cái hố tránh đạn đào sẵn bên đường, nhìn lên
ông thấy “lửa tóe ra từ những họng súng nhằm vào xe jeep - hàng chục máy bay của
chúng tôi bị phá hủy trên mặt đất”. Kỳ quay về: “Điện bị cắt đứt. Chúng tôi
không liên lạc với Bộ tổng tham mưu được nữa. Những người ở trong nhà phải thắp
nến ăn cơm”. Rồi ông lại quay đi, đến Bộ tư lệnh Không quân, để thấy “một cảnh
tượng cực kỳ hỗn loạn bày ra trước mắt, toàn bộ Bộ tư lệnh gồm khoảng 100 sĩ
quan, tướng, đại tá và thiếu tá, tập hợp ở văn phòng tư lệnh. Tôi nhận thấy có
cả vài tướng lục quân nữa. Ông tư lệnh không quân (trung tướng Trần Văn Minh -
GH) cho tôi biết là người Mỹ đã cho lệnh di tản tất cả máy bay F5 sang Thái Lan
và Philippines, hiện bộ tham mưu của ông ta đang chờ tại văn phòng này để người
Mỹ lo liệu việc di tản”.
Nhận xét
Đăng nhận xét