Trung thu, bàn về trăng thượng huyền và trăng hạ huyền
Trăng thượng huyền và trăng hạ huyền, hai từ tiếng Việt này
quả là rất đẹp. Nó đã xuất hiện từ lâu, vừa ngắn gọn lại vừa gợi cảm, quyến rũ
đến mức đã có vô số tác giả lấy làm đề tài hay đặt tên cho tác phẩm văn thơ của
mình.
Không kể các tác giả nước ngoài hay thuộc các thế hệ trước, ta còn thấy
các tác giả trẻ đương đại trong nước cho ra đời những truyện ngắn Dưới ánh
trăng thượng huyền, tập truyện tâm lý xã hội Trăng thượng huyền hay hàng loạt
bài thơ và ca khúc mang tên Trăng hạ huyền.
Ngoài lĩnh vực văn học nghệ thuật, ngày nay hai từ ấy dường như rất ít được
nói và viết trong đời sống hằng ngày. Vì vậy, trên các diễn đàn vẫn thường gặp
một câu hỏi: "Trăng thượng huyền và trăng hạ huyền là thế nào?".
Có khá nhiều những câu trả lời từ các trang báo, những diễn đàn, các câu
lạc bộ thiên văn hay các "nhà phong thủy". Tuy nhiên, các giải thích
dường như không thống nhất, gây khó hiểu, và đặc biệt, các bài hầu như có một
điểm chung: trăng thượng huyền và trăng hạ huyền là trăng có hình bán nguyệt,
vào những ngày mùng 7 hoặc mùng 8 và 22 hoặc 23 âm lịch.
Để hiểu rõ, trước hết là tìm đến các từ điển. Nhưng có thể nhận thấy, khá
nhiều từ điển hiện nay không có hai mục từ này; một số có thì giải nghĩa không
rõ ràng hoặc chưa đúng.
Cuốn Hán Việt từ điển do học giả Đào Duy Anh soạn năm 1932 viết:
"Thượng huyền – ngày mùng 8, 9 âm lịch, khi mặt trăng mọc như vòng
cung"; "Hạ huyền – ngày 22 hoặc 23 âm lịch, hình mặt trăng như cái
vòng cung (dernier quartier de la lune)". Trăng thượng huyền là "…
khi mặt trăng có hình bán nguyệt (thường là các ngày 7, 8, 9 âm lịch)";
Trăng hạ huyền là "... mặt trăng đã khuyết thành hình bán nguyệt (thường
là ngày 22 hoặc 23 âm lịch)".
Chú thích tiếng Pháp trong ngoặc đơn này có nghĩa là "phần tư cuối
cùng của mặt trăng", trong khi ở mục từ thượng huyền không có chú thích
tương ứng.
Cuốn Từ điển Hoàng Phê (hay Từ điển tiếng Việt) rất phổ dụng hiện nay giải
nghĩa rằng:
Như vậy, hai từ điển đã không thống nhất khi mô tả hình dạng trăng vào
cùng một ngày. Theo Đào Duy Anh, trăng thượng huyền và trăng hạ huyền có hình
vòng cung; còn theo Hoàng Phê thì chúng có hình bán nguyệt.
Các sách giáo khoa Khoa học tự nhiên cũng cho biết rằng, vào ngày mùng 8
và 23, trăng có hình bán nguyệt, nhưng không dùng hai từ thượng huyền và hạ huyền
để gọi tên chúng như hai cuốn từ điển nói trên.
Một bài khác được nói là dịch từ một trang web tiếng Nhật
(https://gokuraku-shujo.blogspot.com) lại có một giải nghĩa khác lạ, cho rằng từ
"huyền" ở đây là chỉ dây cung, tức là đoạn thẳng nối hai đầu cánh
cung, giống như nói "cạnh huyền" là đoạn thẳng nối hai đầu hai cạnh
vuông góc trong một tam giác vuông. Và rồi, khi cạnh huyền ấy nằm phía trên
cánh cung thì gọi là "thượng huyền"; ngược lại khi nó nằm phía dưới
thì gọi là "hạ huyền". Không thể biết được đó là giải nghĩa của tác
giả người Nhật hay của người dịch sang tiếng Việt!
Dưới đây xin nêu vài ý kiến góp phần bàn luận cho rõ thêm những vướng mắc
vừa nêu, trong đó, từ "trăng" dùng để chỉ phần sáng mà ta nhìn thấy
trên mặt gần của mặt trăng luôn hướng về trái đất, và tất cả các ngày tháng là
ngày tháng âm lịch.
Giải nghĩa từ ngữ
Thượng/Hạ 上/ – trên/dưới; đi lên/đi xuống; mới đầu/về sau; trước/sau (về thời gian
hoặc thứ tự), như "thượng tuần" – mười ngày đầu của tháng âm lịch;
"hạ bán niên" – nửa cuối năm.
Huyền 弦 – cánh cung, cái cung.
Thượng huyền 上 弦 – trăng hình cánh
cung vào đầu tháng.
Hạ huyền 下 弦 – trăng hình cánh
cung vào cuối tháng.
Waxing moon – trăng nửa đầu tháng, trăng đầy dần lên (từ không trăng đến
trăng tròn).
Waning moon – trăng nửa sau của tháng, trăng khuyết dần đi (từ trăng tròn
đến không trăng. Không trăng cũng được gọi là Trăng mới vào ngày bắt đầu một
tháng âm lịch).
Crescent – lưỡi liềm.
Waxing crescent – trăng lưỡi liềm đầu tháng (cùng nghĩa như thượng huyền).
Waning crescent – trăng lưỡi liềm cuối tháng (cùng nghĩa như hạ huyền).
Như vậy, chỉ cần căn cứ trực tiếp vào nghĩa nêu trên của các từ đã thấy,
thượng huyền và hạ huyền là trăng có hình cong như cánh cung hay lưỡi liềm,
không phải là bán nguyệt.
Trong tiếng Việt, trăng mới, bán nguyệt đầu tháng, trăng tròn, bán nguyệt
cuối tháng là 4 pha khác của trăng. Trong tiếng Anh, chúng cũng mang tên gọi
riêng, lần lượt là new moon, first quarter moon, full moon và third quarter
moon.
Các pha và ngày xuất hiện
Đã biết, một chu kỳ trăng dài 29,53 ngày, bằng trung bình của một tháng
âm lịch. Nếu chia chu kỳ đó làm 4 phần bằng nhau thì mỗi phần dài 7,38 ngày.
Trăng bán nguyệt đầu tháng sẽ xảy ra ở cuối phần tư thứ nhất, tức ngày mùng 7
hoặc 8; trăng tròn sẽ xảy ra vào cuối phần tư thứ hai, tức ngày 15 (rằm); bán
nguyệt cuối tháng xảy ra vào cuối phần tư thứ ba (ngày 22 hoặc 23) và trăng mới
xảy ra vào ngày cuối phần tư thứ tư. Như vậy, vào các ngày mùng 7 hoặc 8 và
ngày 22 hoặc 23, mà các từ điển và nhiều văn bản tiếng Việt nói tới ở trên,
trăng là bán nguyệt, không phải thượng huyền hay hạ huyền. Chúng chỉ khác nhau ở
chỗ, bán nguyệt đầu tháng đang đầy dần lên thành trăng tròn, còn bán nguyệt cuối
tháng đang khuyết đi theo chiều ngược lại thành lưỡi liềm mảnh dần, rồi thành
không trăng.
Các nhà thiên văn có thể tính chính xác thời điểm ngày giờ xảy ra 4pha vừa
nói. Trong khi đó, trăng thượng huyền và trăng hạ huyền thì khác, chúng không xảy
ra ở một thời điểm, mà kéo dài trong suốt cả khoảng phần tư. Trăng thượng huyền
xảy ra trong cả khoảng phần tư thứ nhất, nhưng nhìn thấy hình lưỡi liềm rõ nhất
vào các đêm mùng 4, 5 và 6, vì trước ngày mùng 4, hình lưỡi liềm quá mảnh, còn
sau ngày mùng 6 nó đã đầy lên gần thành bán nguyệt, khiến mắt thường khó phân
biệt.
Tương tự, trăng hạ huyền xảy ra trong suốt cả phần tư cuối cùng, nhưng
nhìn thấy rõ nhất vào các đêm 26, 27, 28, vì trước ngày 26 nó còn gần như bán
nguyệt, và sau ngày 28 nó đã thành lưỡi liềm rất mảnh rồi khuyết dần đi cho đến
khi mất hẳn vào ngày cuối cùng của tháng.
Trở lại, từ điển Đào Duy Anh viết rằng, Trăng hạ huyền ngày 22 hoặc 23 có
hình vòng cung, với chú giải tiếng Pháp là phần tư cuối cùng. Quả vậy, trăng hạ
huyền xảy ra trong suốt cả phần tư cuối cùng, nhưng như vậy không thể viết là
vào ngày 22 hoặc 23 được, bởi ngày đó mới chỉ là ngày bắt đầu của phần tư cuối
cùng.
Quan sát các pha mặt trăng
Các biến đổi trong hình học của hệ trái đất – mặt trăng – mặt trời là
nguyên nhân gây ra các pha mặt trăng, lặp lại sau mỗi chu kỳ 29,53 ngày. Mặt
trăng nằm trên quỹ đạo quay đồng bộ, nên nó luôn giữ nguyên một mặt hướng về
trái đất.
Trái đất tự quay quanh trục của nó từ tây sang đông một vòng trong 24 giờ,
nên quan sát thực tế sẽ nhận thấy mặt trăng cũng như mặt trời đều mọc từ hướng
đông và lặn ở hướng tây. Tuy nhiên thời gian trăng mọc và lặn có độ trễ, trung
bình muộn hơn khoảng 60 phút mỗi ngày so với ngày hôm trước.
Trăng mới ngày đầu tháng mọc vào buổi sáng cùng lúc với mặt trời, nên
không thể nhìn thấy trừ khi có nhật thực. Khi ấy có thể thấy trăng tối đen che
một phần hoặc toàn phần mặt trời.
Trăng lưỡi liềm đầu tháng (thượng huyền) tối. Như vậy, có thể nhìn rõ vào
lúc hoàng hôn ở hướng tây, trong những ngày thuộc phần tư thứ nhất.
Trăng bán nguyệt đầu tháng mọc vào khoảng giữa trưa ngày mùng 7 hoặc mùng
8.
Ngày rằm, trăng tròn mọc khoảng 6 giờ chiều, lặn khoảng 6 giờ sáng, gần
như trái ngược với mặt trời. Do đó, có thể nhìn rõ suốt đêm trừ khi có nguyệt
thực, lúc đó bóng của trái đất che lẹm một phần hay toàn phần mặt trăng.
Trăng bán nguyệt cuối tháng mọc vào khoảng nửa đêm ngày 22 hoặc 23.
Trăng lưỡi liềm cuối tháng (hạ huyền) mọc vào khoảng 3 giờ sáng, lặn vào
khoảng 3 giờ chiều. Như vậy, có thể nhìn rõ trăng hạ huyền từ sau 3 giờ sáng đến
lúc bình minh ở hướng đông, trong những ngày thuộc phần tư thứ tư.
Cuối cùng, vì sự giàu đẹp của tiếng Việt, các từ thượng huyền và hạ huyền
nên được sử dụng rộng rãi, bắt đầu từ trong nhà trường. Điều quan trọng là cần
hiểu cho đúng: trăng thượng huyền và trăng hạ huyền có hình cong lưỡi liềm,
không xảy ra vào một ngày cố định, mà mỗi lần kéo dài vài ngày đầu tháng và vài
ngày cuối tháng.
Nhận xét
Đăng nhận xét