10 CẶP TỪ RẤT DỄ “LẨN LỘN” TRONG TIẾNG VIỆT
10 CẶP TỪ
RẤT DỄ “LẨN LỘN” TRONG TIẾNG VIỆT
Dám cá
rằng, bạn đã từng dùng sai rất nhiều lần những từ này mà không hề hay biết!
Đi khắp Đông Tây, thật hiếm có
ngôn ngữ nào chứa từ tượng hình và tượng thanh nhiều như Tiếng
Việt.
Tuy nhiên, dù
Tiếng Việt đẹp bao nhiêu, dễ học, dễ nhớ bao nhiêu thì vẫn có không ít người
Việt hay bị nhầm lẫn trong cách sử dụng từ.
Dám cá rằng,
không ít bạn trong chúng ta sử dụng những cặp từ này hàng ngày nhưng vẫn khó
tránh khỏi sai sót. Hãy cùng xem đó là cặp từ gì và chia sẻ xem bạn có hay dùng
nhầm không nhé!
1. Chia sẻ hay chia xẻ
Hẳn nói đến cặp từ này, không ít bạn quả quyết "chia sẻ"
mới là từ đúng bởi ít khi nhìn thấy ai dùng từ "chia xẻ" cả. Nhưng
bạn có hay, hai từ này đều được sử dụng, mặc dù nghĩa của chúng có hơi khác
nhau.
Từ "chia sẻ", "chia" có
nghĩa là làm ra thành từng phần, từ một chỉnh thể; "sẻ" là chia bớt
ra, lấy ra một phần. Do đó, "chia sẻ" có nghĩa là cùng chia với nhau
để cùng hưởng, hoặc cùng chịu đựng. (ví dụ: Chia cơm sẻ áo, chia sẻ nỗi buồn).
"Chia xẻ" – "chia" vẫn có nghĩa là làm nhỏ ra
thành từng phần từ một chỉnh thể, trong khi đó "xẻ" nghĩa là chia,
bổ, cắt cho rời ra theo chiều dọc, không để dính liền nhau nữa, hay có nghĩa là
đào cái gì cho thông, thoát (VD: xẻ rãnh thoát nước).
Bởi vậy, có thể
nói, hai từ "chia sẻ" và "chia xẻ" này cùng là động từ, có
nghĩa gần giống nhau nhưng cách dùng từ khác nhau. Bạn nên chọn từ đúng trong
mỗi trường hợp, chứ đừng cãi cố là không có từ "chia xẻ" nhé!
- Giả thuyết hay giả thiết
Trời, từ này là
cực hay nhầm lẫn luôn đó! Có người thì khăng khăng nói rằng, chỉ có "giả
thuyết" mới đúng và dùng trong tất cả các trường hợp, người khác thì lại
quả quyết - "giả thiết" mới thật chính xác. Và sự thật là... cả hai
từ đều dùng được nhưng ở trong các trường hợp khác nhau.
Cụ thể, "giả thuyết" được sử dụng
trong trường hợp muốn nêu luận điểm mới trong khoa học để giải thích một hiện
tượng tự nhiên nào đó và tạm được chấp nhận, chưa được kiểm nghiệm, kiểm chứng.
Trong khi
đó, "giả thiết" được dùng để
chỉ điều cho trước trong một định lý hay một bài toán để căn cứ vào đó mà suy
ra kết luận của định lý hay để giải bài toán.
Một định nghĩa
khác được đề cập trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê như sau: "giả
thiết" - điều coi như là có thật, nêu ra làm căn cứ để phân tích, suy
luận, giả định. Bởi vậy, hai từ "giả thiết" và "giả thuyết"
đều đúng, chỉ là bạn nên chọn từ thật đúng trong mỗi trường hợp mà thôi.
- Độc giả hay đọc giả
Cần chỉ rõ rằng,
"độc giả" là từ Hán Việt gồm hai chữ gốc Hán: "độc" mang ý
nghĩa "đọc" hay "học" và "giả" mang ý nghĩa
"người". Khi hai chữ đó được kết hợp với nhau, từ "độc giả"
có nghĩa là "người đọc".
Trong từ điển
Tiếng Việt của Hoàng Phê xuất bản năm 2000, trang 336 cũng có định nghĩa
từ "độc giả" – đó là
người đọc sách báo, trong quan hệ với tác giả, nhà xuất bản, cơ quan báo chí,
thư viện.
Trong khi đó,
từ "đọc giả" được một số người
sử dụng với nghĩa "người đọc" hay "bạn đọc" – bao gồm
"đọc" là một từ thuần Việt và "giả" là một chữ Hán Việt.
Khi ghép hai từ này vào, ta sẽ nhận thấy một sự kết hợp không hợp lý.
Bởi vậy có thể
khẳng định rằng, "độc giả" mới là từ đúng.
- Chín mùi hay chín muồi
Theo định nghĩa
của Hoàng Phê – trong Từ điển Tiếng Việt 2000 (trang 161) có đề cập "chín muồi" là
(quả cây) rất chín, đạt đến độ ngon nhất. Đạt đến độ phát triển đầy đủ nhất, để
có thể chuyển giai đoạn hoặc trạng thái. (VD: Điều kiện để chín muồi).
Nhưng lại có
rất ít từ điển đề cập đến từ "chín
mùi". Ngay cả từ điển của Nguyễn Kim Thản (2005) cũng chỉ nêu
"chín muồi" là…. chín mùi như một cách nói tắt.
Bởi vậy, có thể
khẳng định, từ đúng ở đây phải là "chín muồi".
- Tựu chung hay tựu trung
Trường hợp đúng
ở đây phải là "tựu trung". Tuy nhiên, không ít người dùng "tựu chung" hàng
ngày bởi họ cho rằng, nghĩa của "chung" trong "tựu chung"
giống trong từ "chung quy".
Thật ra,
từ "tựu trung" - "tựu" có nghĩa là
tới (tề tựu); trung: là ở giữa, trong, bên trong. "Tựu trung" có
nghĩa là tóm lại, biểu thị điều sắp nêu ra là cái chung, cái chính trong những
điều vừa nói đến. Ví dụ: Mỗi người nói một kiểu nhưng tựu trung đều tán thành
cả.
- Vô hình chung hay vô hình trung
Không ít người
thường dùng từ "vô hình chung" thay cho từ "vô hình trung"
bởi nghĩ từ "chung" có nghĩa là chung quy. Tuy nhiên, cách hiểu này
không đúng.
Theo nghĩa Hán
Việt, "vô hình trung" có nghĩa là "trong cái vô
hình". Còn trong Từ điển Tiếng Việt có định nghĩa: "vô hình
trung": tuy không có chủ định, không cố ý nhưng tự nhiên lại là (tạo ra,
gây ra việc nói đến). Ví dụ: "Anh không nói gì, vô hình trung đã làm hại
nó".
Trong khi đó,
không có từ điển nào đề cập đến định nghĩa của từ "vô hình chung" cả.
Vì thế, "vô hình trung" là từ đúng; còn "vô hình chung" là
sai.
- Nhậm chức hay nhận chức
Theo nghĩa Hán
Việt, "nhậm" trong từ "nhậm chức" là gánh vác công vụ,
nhiệm vụ; "chức" là chức trách, việc quan, bổn phận. "Nhậm chức" là giữ chức vụ, gánh vác, đảm
đương chức vụ do cấp trên giao cho, hiểu đơn giản, cấp trên bổ nhiệm, cấp dưới
nhậm chức.
Trong khi đó,
từ "nhận chức" trong nghĩa Hán Nôm thì "nhận" là tiếp đón,
chịu lấy, lĩnh lấy; nên"nhận
chức" là nhận chức vụ, nhưng không diễn tả được trách nhiệm
với chức vụ đó. Theo nghĩa Hán, "nhận" là nhìn, biết, chịu, bằng lòng
nên "nhận chức" không có nghĩa.
Do đó, dù theo
từ điển Hán Nôm, hay Hán Việt thì từ "nhận chức" đều không có nghĩa
diễn tả được trách nhiệm đối với chức vụ. Do đó, từ đúng phải là "nhậm
chức".
- Chẩn đoán hay chuẩn đoán
Bạn cho rằng,
chẩn đoán và chuẩn đoán là giống nhau ư? Nhưng sự thật là, trong này chỉ có một
từ đúng mà thôi.
"Chẩn đoán" -
"chẩn" có nghĩa là xác định, phân biệt dựa theo những triệu chứng,
dấu hiệu có sẵn; "đoán" có nghĩa là dựa vào cái có sẵn, đã thấy, đã
biết để tìm cách suy ra điều chủ yếu còn chưa rõ hoặc chưa xảy ra.
Như vậy,
"chẩn đoán" có nghĩa là xác định bệnh, dựa theo triệu chứng và kết
quả xét nghiệm (theo Từ điển Tiếng Việt). VD: Chẩn đoán bệnh có đúng thì điều
trị mới có hiệu quả.
Trong khi đó,
"chuẩn" trong từ "chuẩn
đoán" lại không hề mang nghĩa như vậy. Từ "chuẩn"
chỉ có nghĩa là cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, hướng theo đó mà làm đúng;
hay là cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc theo thói quen trong xã
hội mà thôi.
Vì vậy,
"chẩn đoán" mới là từ đúng.
- Tham quan hay thăm quan
Nhiều người cho
rằng, "tham quan" hay "thăm quan" giống nhau về nghĩa nên
có thể sử dụng xen lẫn được. Nhưng sự thật là chỉ có 1 từ đúng thôi – và đó là
"tham quan". Thử phân tách nghĩa các từ ra nhé!
Từ "thăm quan" được gắn
nghĩa từ "thăm" - đến nơi nào đó bày tỏ sự quan tâm, hỏi han (đi thăm
người ốm) hay xem xét để biết tình hình (thăm trường, lớp)… với từ
"quan" – quan sát.
Trong khi
từ "tham quan" (động
từ) - theo gốc Hán thì "tham" có nghĩa là thêm vào; "quan"
là quan sát, nhìn nhận. Do đó, "tham quan" nghĩa là đi tận nơi để
quan sát, mở rộng hiểu biết và học hỏi kinh nghiệm.
Tuy nhiên, từ
này đồng âm khác nghĩa với từ "tham quan" (danh từ) chỉ viên quan có
tính tham lam.Bởi vậy, từ "tham quan" mới là từ chính xác.
- Sát nhập hay sáp nhập
Nếu ai đó hỏi
bạn từ "sát nhập" hay "sáp nhập" mới đúng. Bạn sẽ trả lời
sao? Sự thật là gốc của 2 từ "sát nhập"
và "sáp nhập" này bắt nguồn từ "sáp nhập" – một
từ ngoại lai. Trong đó, "Sáp" có nghĩa là cắm vào, cài vào; còn
"Nhập" nghĩa là vào, tham gia vào, đưa vào.
Do vậy, "sáp nhập" là
nhập chung lại, gộp chung lại làm một. (Ví dụ: Sáp nhập ba xã làm một/ Công ty
A sáp nhập vào công ty B). Với từ "sát nhập", từ "sát" là từ biến âm, biến thể dân gian của từ
"sáp" mà ra. Từ "sát" trong tiếng Việt có nghĩa phái sinh
từ từ "sáp".
Ngoài nghĩa gốc
là cắm vào, cài vào thì còn có nghĩa là liền ngay bên cạnh, xích gần lại đến
mức không còn khoảng cách. Đứng trên quan điểm đồng đại, nhiều người sử dụng
hai từ "sáp nhập" và "sát nhập" y như nhau. Một vài cuốn từ
điển tiếng Việt đề cập đồng thời hai từ "sáp nhập" và "sát
nhập" với nghĩa tương tự nhau.
Tuy nhiên, theo
ý kiến của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Quận – Trưởng Bộ môn Hán Nôm Khoa Văn học và
khoa Ngôn ngữ - trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn thì không nên sử dụng hai
từ này giống nhau bởi nó không thật hợp lý.
Từ
"sát" – tức là cạnh đến mức không còn khoảng cách, còn "sáp"
nghĩa là cắm vào, cài vào; nếu sử dụng chung, nghĩa gốc của từ "sáp"
không còn, từ đó, nghĩa của từ đã bị thay đổi.
Hãy chia sẻ
thêm về những cặp từ mà bạn hay nhầm lẫn qua bình luận ở dưới nhé!
* Bài viết có sử dụng một số tài liệu tham khảo:
1.Đào Duy Anh (2005), Hán Việt từ điển, Nxb. Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội.
2.Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng và
Trung tâm Từ điển học.
Nhận xét
Đăng nhận xét