LÀM NGHỀ GÌ CŨNG PHẢI BỎ VỐN ĐẦU TƯ
LÀM NGHỀ GÌ CŨNG PHẢI
BỎ VỐN ĐẦU TƯ
Trời đang nắng nóng, hai chị em
kết nghĩa là cô Năm (người Trung) và cô Tư (người Bắc) rủ nhau đi chợ Bến Thành
mua ít trái cây. Sau khi lựa xong, bỏ lên cân, họ còn đang ngần ngừ, bỗng nghe
bà chủ (người Nam) nói cười rổn rảng: “Nè, cho thêm trái nữa để làm quen. Cân
giác rồi đó”.
Giác
là gì?
Có thể hiểu “giác” trong ngữ cảnh
trên là cân nặng/nhiều hơn mức quy định. Nếu không dùng từ “giác”, ta dùng từ
“già” cũng đặng. Nếu cân thiếu, không đủ trọng lượng gọi là cân non.
Trong vốn từ tiếng Việt, non có
nhiều hàm nghĩa. Đại Nam quấc âm tự vị (1895) có liệt kê nhiều từ non cùng
nghĩa “non lắm” - theo cách nói của người miền Nam: non nhuốt, non nớt, non nhớt,
non bệu, non trong. Phương ngữ Nam Bộ của Nam Chi Bùi Thanh Kiên còn bổ sung
thêm: non chẹt, non èo, non mễu (non mướt và tươi, thường dùng để chỉ rau cỏ),
non nhớt, non xèo. Tất nhiên, không chỉ dừng lại đó, còn có thể thêm như non
choẹt, non ệu….
Ta còn thú vị với “chữ non” lại
là viết quá xấu, chữ như gà bới nhưng “non chữ” là học hành còn ít, chữ nghĩa
chẳng có bao nhiêu.
Thử hỏi cắc cớ, “non nhân” là
sao? Thơ Nguyễn Công Trứ có câu: “Năm ba chén non nhân nước trí/ Một vài câu
thơ thánh phú thần”. Là tác giả lấy từ câu “Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy”-
người nhân trí thích ngao du non nước nhưng cũng hiểu rộng là chỉ cảnh non nước.
Do có thể đảo từ non non nước nước/ nước non/ non nước nên trong ca dao, thơ Việt
Nam, hình ảnh ấy mang nhiều sắc thái khác nhau. Thề non nước của Tản Đà là một
trong những bài thơ tiêu biểu nhất: “Nước non nặng một lời thề/ Nước đi đi mãi
không về cùng non…”.
Mà đã nói đến non ắt ta lại nhớ
đến từ đồng nghĩa là núi/núi non. Các câu thành ngữ “Đầu non góc núi”, tương tự
“Đầu gành cuối biển”, “Đầu sông ngọn nguồn” là chỉ nơi xa xôi, khó đi tới, cheo
leo, quạnh vắng…
Trong Việt ngữ tinh hoa từ điển
(1949), nhà nghiên cứu Long Điền Nguyễn Văn Minh: “Thường nghiệm thấy chỉ nói:
“dãy núi” không thấy nói “dãy non”; lại chỉ thấy nói “non nước”, mà không thấy
nói “núi nước” và nói “núi già” mà không thấy nói “non già”. Lại xét trong câu
ca dao: “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”, trong một
câu mà ngày xưa dùng cả hai tiếng “non” và “núi”, thì tất có dụng ý và chắc hai
tiếng có nghĩa phân biệt”.
Không những thế, non còn đi
chung với sông/non sông; và núi cũng vậy: núi sông/sông núi. Với các dẫn chứng
này, ta thấy rằng trong tiếng Việt sự biểu lộ từng sắc thái của các từ nước/
núi/ non cực kỳ phong phú, đa dạng.
Ca dao có câu tuyệt hay: “Trăng
bao nhiêu tuổi trăng già/ Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non?”. Ai cũng thừa nhận
rằng “non” trong “núi non” là sự chơi chữ, đối lập với “già” của “trăng già” ở
vế trước.
Vậy xin hỏi, có phải “trăng già”
là chỉ về tuổi tác của con trăng ấy? Không hề. Việt Nam tự điển (1931) giải
thích: “Do chữ nguyệt lão dịch ra, thường dùng để chỉ vị thần xe duyên trai
gái”.
“Trăng già độc địa làm sao/ Cầm
dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên” (Truyện Kiều) là hiểu theo nghĩa đó. Thông thường
khi nói về tuổi tác của ai đó, ta thường dùng “người già/người trẻ” - như thành
ngữ có câu: “Già được bát canh, trẻ được manh áo mới”.
Trở lại với từ giác, ta biết
ngày xưa, một đồng là mười giác; một giác còn gọi là một hào, một cắc. Trong Việt
ngữ chánh tả tự vị, nhà ngôn ngữ học Lê Ngọc Trụ cho rằng, “cắc” do từ “giác”
mà ra.
“Đi giác sắm bầu, đi câu sắm giỏ”.
Câu thành ngữ này, hiểu theo nghĩa bóng làm nghề gì cũng bỏ vốn đầu tư dụng cụ
hành nghề, tựa như “Làm ruộng sắm cày, đi may sắm kéo”.
Giác trong câu trên, có thể hiểu
đại khái là phương pháp làm tụ máu bằng hơi/giác hơi, dùng cái bầu (hay ống sừng)
úp vào người để hút máu độc. Dụng cụ ấy của thợ giác gọi là “bầu giác/ống
giác”.
LÊ MINH QUỐC
Nhận xét
Đăng nhận xét