TIẾNG VIỆT KỲ DIỆU: HÀNH TRÌNH TỪ CHỮ NHO, CHỮ NÔM ĐẾN CHỮ QUỐC NGỮ
TIẾNG VIỆT KỲ DIỆU:
HÀNH TRÌNH TỪ CHỮ NHO, CHỮ NÔM
ĐẾN CHỮ QUỐC NGỮ
Đã hơn trăm năm nay nước ta chính thức sử dụng chữ Quốc
ngữ, thứ chữ viết được các nhà trí thức tiên tiến đầu thế kỷ20 ca ngợi là Hồn
trong nước; Công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt và tin rằng Nước Nam
ta sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ.
Dư luận nước ta trước đây quy công trạng làm ra thứ chữ kỳ
diệu ấy cho giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes. Gần đây lại có dư luận yêu
cầu ghi công các giáo sĩ không phải người Pháp như Francisco de Pina, António
Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes… và đóng góp của giáo dân miền Nam
nước ta từng giúp các giáo sĩ đó học tiếng Việt, và đóng vai trò “giám định”
trong quá trình thí điểm sử dụng thứ chữ mới ấy.
Đáng tiếc là cho tới nay công luận ở ta vẫn chưa nhất trí
chọn được các nhân vật tiêu biểu làm ra chữ Quốc ngữ, và cơ quan chính quyền
liên quan cũng chưa dứt điểm giải quyết vấn đề này. Để tình trạng đó kéo dài sẽ
không có lợi cho hình ảnh một dân tộc văn minh. Đã đến lúc cần bàn thảo rộng
rãi và sớm có hành động tri ân những người xứng đáng ghi công. Bài này nhằm góp
một ý kiến bàn thảo. Vì người viết ít hiểu biết về ngôn ngữ học nên ý kiến nêu
ra khó tránh khỏi có sai sót, mong được bạn đọc chỉ bảo.
***
Tiếng nói là khả năng bẩm sinh của con người, còn chữ viết
là một phát minh sáng tạo không phải dân tộc nào cũng có. Ở thời xưa, tiến
trình làm chữ viết cho một ngôn ngữ cần thời gian nhiều thế kỷ, thậm chí hàng
ngàn năm. Tiếng Việt có hệ thống ngữ âm cực kỳ phong phú, cho nên càng có sức sống
bền dai và càng khó làm được chữ viết; có thể vì thế mà ta chậm có chữ của
mình. Nhưng cũng chính nhờ tiếng ta giàu ngữ âm mà rốt cuộc dân tộc ta được thừa
hưởng một loại chữ viết tuyệt vời nhất vùng Đông Á.
Hiếm thấy nước nào từng sử dụng ba loại chữ viết như nước
ta: chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, mỗi loại chữ ấy làm nên một trang sử vẻ
vang đáng ôn lại.
Chữ Nho
Khoảng thế kỷ 2 TCN, phong kiến Trung Quốc (TQ) chiếm nước
ta, bắt dân ta học chữ Hán.[1] Nhờ đó lần đầu tiên người Việt Nam biết tới chữ
viết –– phương tiện truyền thông tin cực kỳ tiện lợi, không bị hạn chế về không
gian và thời gian như tiếng nói. Có thể vì thấy được cái lợi lớn ấy mà các bậc
đại trí người Việt đã nảy ý tưởng mượn dùng loại chữ này. Nhưng học Hán ngữ cực
kỳ khó, vì người TQ đọc tiếng Hán theo hàng trăm phương ngữ khác nhau. Cái khó
ló cái khôn: tổ tiên ta đã nghĩ ra cách chỉ đọc thứ chữ này bằng tiếng Việt mà
không đọc bằng tiếng Hán, tức chỉ học chữ mà không học tiếng Hán. Ngôn ngữ học
ngày nay giải thích điều đó là hợp lý, vì chữ Hán là chữ biểu ý (chữ ghi ý,
ideograph), tương tự chữ tượng hình vẽ con vật hoặc chữ số 1, 2, 3 hoặc ký hiệu
$, %, … cả thế giới đều hiểu ý nghĩa các ký hiệu biểu ý đó, tuy đọc bằng tiếng
của mình. Tổ tiên ta đã lợi dụng tính biểu ý của chữ Hán để đọc nó bằng tiếng
Việt, như cách người TQ các địa phương đọc bằng phương ngữ của họ. Vì thế chính
quyền chiếm đóng không thể cấm dân ta đọc chữ Hán theo cách của ta.
Người Việt gọi thứ chữ Hán đã Việt hóa phần ngữ âm ấy là
chữ Nho, tức chữ của người có học. Khi ấy mỗi chữ Hán được đọc bằng một âm (từ)
Hán-Việt gần giống âm Hán của nó; nhưng một âm Hán có thể chuyển thành một số
âm Việt khác nhau. Không chữ Hán nào không được đặt tên tiếng Việt. Việc đặt
tên cho hàng chục nghìn chữ Hán kéo dài hàng trăm năm, thực sự là một công
trình vĩ đại. Chỉ bằng truyền miệng mà cách nay 2.000 năm các thầy đồ Nho trong
cả nước ta đã đọc chữ Hán bằng một âm Việt thống nhất (TQ đặt mục tiêu đến năm
2020 toàn dân đọc chữ Hán bằng một âm Hán thống nhất). Có lẽ đây là lần đầu
tiên chữ Hán được phiên âm ra tiếng nước ngoài.
Do dạy và học chữ Hán bằng tiếng mẹ đẻ nên dân ta học chữ
Hán dễ hơn so với khi dạy và học bằng tiếng Hán, nhờ đó mượn được thứ chữ này để
dùng, và coi chữ Nho là “chữ ta” trong khoảng 2.000 năm. Không ít người giỏi chữ
chẳng kém người Hán. Như Khương Công Phụ (731-805) người Thanh Hóa đỗ Trạng
nguyên ở TQ, về sau được vua nhà Đường phong Tể tướng.
Sau khi có chữ viết, dân tộc ta thoát khỏi thời tiền sử lạc
hậu, tiến sang thời đại có sử sách ghi chép, có công cụ giao tiếp đối nội đối
ngoại, sáng tác văn thơ, xây dựng ngành giáo dục, tiếp thu nền văn minh Trung
Hoa tiên tiến, tổ chức xã hội theo mô hình TQ, từ đó tạo dựng nền văn minh Việt.
Việc dùng chữ Hán mà không nói tiếng Hán đã giúp dân ta đời đời nói tiếng mẹ đẻ;
nhờ thế dù có học và dùng chữ Hán bao lâu thì vẫn tránh được thảm họa bị người
Hán đồng hóa. Chữ Nho đã thầm lặng bóp chết âm mưu Hán hóa tiếng Việt. Sau hơn
1.000 năm Bắc thuộc, dân tộc ta vẫn giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ cùng nền
văn hóa của mình. Đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam.
Phương pháp dùng từ Hán-Việt để phiên âm chữ Hán, qua đó
làm thành chữ Nho, là một sáng tạo xuất sắc về ngôn ngữ, cực kỳ ích lợi: vừa mượn
được chữ của người Hán về dùng, vừa lợi dụng được kho từ vựng chữ Hán làm nguồn
bổ sung vô hạn cho kho từ vựng tiếng Việt. Thực ra hiện nay từ Hán-Việt đã kết
hợp nhuần nhuyễn với từ thuần Việt tới mức khó phân biệt (ví dụ: lập trình, cận
nghèo v.v…). Khi cần dịch một từ ngữ mới xuất hiện, ta thường tham khảo cách
dùng từ của người TQ. Ví dụ từ quantum, người TQ dịch là量子, ta đọc Hán-Việt là lượng tử, rất hay và dễ hiểu. Toàn bộ từ vựng Hán
ngữ hiện đại do người Nhật cuối thế kỷ 19 phiên dịch các từ ngữ phương Tây, sau
khi vào Việt Nam đều được các nhà Nho Đông Kinh Nghĩa Thục chuyển thẳng thành từ
Hán-Việt như vậy. Ngày nay không một từ ngữ mới nào không thể chuyển thành tiếng
Việt.
Hơn nữa, tổ tiên ta phiên âm chữ Hán theo cách khôn ngoan
không đâu có. Người Triều Tiên/Hàn Quốc phiên âm theo kiểu bám sát âm Hán, hậu
quả là thừa kế 100% tình trạng tồn tại quá nhiều chữ đồng âm trong chữ Hán; bởi
vậy sau 7 thế kỷ dùng chữ Hangul, cho tới nay họ vẫn phải dùng chữ Hán để ghi
chú các chữ đồng âm. Người Nhật đọc chữ Hán theo nghĩa tiếng Nhật, không theo
âm tiếng Hán –– cách phiên âm này khiến cho ban đầu họ phải dùng hàng chục
nghìn chữ Hán, làm cho tiếng Nhật thời cổ trở nên cực kỳ phức tạp. Về sau họ
làm ra chữ Kana biểu âm, nhờ thế chỉ còn cần dùng khoảng 2000 chữ Hán. Tổ tiên
ta phiên âm chữ Hán theo kiểu một âm tiếng Hán được chuyển thành hàng chục âm
tiếng Việt, nhờ thế giảm hàng chục lần số chữ đồng âm, qua đó làm cho từ Hán-Việt
chính xác hơn. Ví dụ âm [yi] tiếng Hán có 135 chữ đồng âm, ta chuyển thành hàng
chục âm tiếng Việt như ất, dật, di, dĩ, dị, dịch, duệ, ích, y, ý, nghi, nghị,
nghĩa, nhị, ức,…
Chữ Nho vốn là chữ Hán nên không ghi được lời nói tiếng
Việt, do đó không thể làm chữ viết của tiếng Việt. Trên thực tế chữ Nho hoàn
toàn xa lạ với ngôn ngữ của tầng lớp bình dân, chỉ một số ít người thuộc giới
quan lại hoặc giới tinh hoa ở ta biết dùng chữ Nho, và chỉ dùng để viết (bút
đàm) trong một số lĩnh vực hẹp, không dùng để nói. Văn thơ chữ Nho làm theo kiểu
văn thơ của người Hán không được coi là văn thơ tiếng Việt.
Chữ Nôm
Từ khoảng thế kỷ 12 tổ tiên ta bắt đầu sáng tạo một loại
chữ viết nhằm ghi âm tiếng mẹ đẻ, gọi là chữ Nôm. Thử nghiệm này nói lên ý thức
tự chủ ngôn ngữ muốn có chữ viết riêng của ta, chấm dứt tình trạng dùng chữ đi
mượn, lạithể hiện được trí tuệ của người Việt: tiến tới làm ra loại chữ tiên tiến
nhất –– chữ biểu âm (chữ ghi âm, phonograph), loại chữ người Hán chưa từng có.
Chữ Nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán đọc theo âm
Hán-Việt, kết hợp cả hai yếu tố biểu ý và biểu âm. Vì chưa biết tới ký tự Latin
abc nên tổ tiên ta đã dùng các ký tự vuông chữ Hán (có cải tiến) để ghi âm tiếng
mẹ đẻ của mình. Ban đầu chữ Nôm mượn dạng chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, dần dần
dùng cách ghép hai chữ Hán để tạo ra một chữ mới, một phần gợi âm, một phần gợi
ý –– về sau loại chữ tự tạo này được dùng ngày một nhiều. Nhưng vì các ký tự
vuông gốc chữ Hán không phải là chữ cái ghép vần, cho nên mức chính xác ghi âm
tiếng Việt còn thấp, chưa tiêu chuẩn hóa, nhiều chữ phải đoán âm đọc, có trường
hợp một âm có nhiều chữ v.v…
Mỗi chữ Nôm thể hiện một âm tiết. Tiếng Việt giàu âm tiết
nên có nhiều chữ Nôm. Theo tài liệu, vào giữa thế kỷ 17 đã có khoảng 80.000 chữ
Nôm (?). “Bảng tra chữ Nôm” (xuất bản năm 1976) cho biết có 8.187 chữ. “Từ điển
Chữ Nôm dẫn giải” của GS Nguyễn Quang Hồng (2015) có 9.450 chữ Nôm (gồm gần
3.000 chữ tự tạo), ghi 14.519 âm tiết tiếng Việt. Do chữ Nôm chưa chuẩn hóa nên
các số liệu trên có khác nhau, nhưng đều cho thấy tổ tiên ta đã làm được rất
nhiều chữ, suy ra chữ Nôm thời xưa đã ghi được rất nhiều (nếu không nói là hầu
hết) âm tiếng Việt đã dùng.
Chữ Nôm từng được gọi là Quốc ngữ hoặc Quốc âm, tức chữ của
tiếng nói nước ta (chữ Nho chưa bao giờ được gọi như vậy). Nhưng do cấu tạo
trên nền tảng chữ Hán nên chữ Nôm phụ thuộc vào chữ Hán, khó học (biết chữ Nho
mới học được chữ Nôm), khó phổ cập. Hơn nữa, do Nhà nước phong kiến và tầng lớp
tinh hoa ở ta mù quáng sùng bái chữ Hán cho nên chữ Nôm chưa được thừa nhận là
chữ viết chính thức, bị coi là thấp kém dưới chữ Hán. Vì thế chữ Nôm khó được
phát triển và hoàn thiện, chưa tiêu chuẩn hóa.
Tuy vậy văn thơ chữ Nôm, tức văn thơ tiếng Việt, do nói
lên được tiếng nói và nỗi lòng của người bình dân nên đã tỏ ra trội hơn hẳn văn
thơ chữ Nho. Nền văn học chữ Nôm từng đạt tới cực thịnh từ thời Hậu Lê đến thời
kỳ đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 17-19), với các kiệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491-1585), Đoàn Thị Điểm (1705-48), Nguyễn Gia Thiều (1741-98), Nguyễn Huy Tự
(1743-90), Nguyễn Du (1765-1820), Hồ Xuân Hương (thế kỷ 18-19), Phạm Thái
(1777-1813), Bà Huyện Thanh Quan (thế kỷ 19), Lý Văn Phức (1785-1849), Nguyễn
Đình Chiểu (1822-88), Nguyễn Khuyến (1835-1909), Trần Tế Xương (1870-1907),
v.v. Sách Thiên Nam Ngữ Lục (cuối thế kỷ 17) gồm 8.136 câu thơ lục bát, dùng tới
58.212 chữ Nôm.
Càng về sau chữ Nôm càng được sử dụng nhiều: trong hơn
200 năm sau khi chữ Quốc ngữ đã ra đời nhưng chưa phổ cập, các linh mục Công
giáo đều dùng chữ Nôm viết tài liệu giảng đạo. Điều đó cho thấy vai trò to lớn
của chữ Nôm trong đời sống văn hóa ở ta, đặc biệt trong cộng đồng Công giáo vốn
không ưa dùng chữ gốc Hán.
Vì sao chữ Nôm khó học mà lại được sử dụng khá phổ biến
như vậy? Chủ yếu do chữ Nôm có yếu tố ghi âm rất rõ, ghi được tiếng nói người
bình dân, là “chữ của tiếng ta”. Ngôn ngữ học thời nay giải thích: chữ Nôm có
được yếu tố ghi âm là do tiếng Việt giàu âm tiết nên vượt qua được sự hạn chế của
ngôn ngữ đơn âm tiết (monosyllabic).[2]
Chữ Quốc ngữ
Thế kỷ 17 các giáo sĩ Kitô giáo Dòng Tên Francisco de
Pina, António Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes, Girolamo Maiorica,
Alexandre de Rhodes v.v… đến nước ta truyền giáo. Dòng Tên chỉ tuyển người có
trình độ tiến sĩ,và nghiêm khắc yêu cầu nhà truyền giáo phải thông thạo ngôn ngữ
và theo phong tục tập quán của dân bản xứ.
Theo ghi chép, Francisco de Pina đến Việt Nam năm 1617,
ba năm sau đã cùng các giáo sĩ soạn tài liệu giáo lý bằng chữ Nôm. Trong các
năm 1632-1656, Girolamo Maiorica (người Ý) đã viết 45 tác phẩm chữ Nôm, trong
đó Thư viện Quốc gia Pháp hiện còn giữ 15 tác phẩm với tổng số 1,2 triệu chữ
Nôm,[3] nhiều gấp 52 lần số chữ Nôm trong Truyện Kiều. Một số thư viện còn giữ
được nhiều tài liệu chữ Nôm của các giáo sĩ đi đầu làm chữ Quốc ngữ như Gaspar
do Amaral, António Barbosa…
Vì đối tượng truyền giáo thời ấy là nông dân, ngư dân Quảng
Nam, Quảng Ngãi nên dĩ nhiên các tài liệu giảng đạo chữ Nôm phải dùng từ ngữ của
dân thường. Từ đây có thể suy ra các vị giáo sĩ-bậc thầy ngôn ngữ học ấy không
thể không nhận thấy chữ Nôm có yếu tố biểu âm, và đã ghi được phần lớn âm tiếng
Việt, nhưng chỉ vì dùng ký tự vuông của Hán ngữ nên ghi âm chưa chính xác, và
khó học, khó phổ cập. Kinh nghiệm thất bại của các giáo sĩ Dòng Tên ở Nhật
trong việc phiên âm Latin hóa chữ Kanji biểu ý (tức chữ Hán) càng cho thấy việc
chữ Nôm có yếu tố biểu âm là một thuận lợi lớn khi phiên âm nó thành chữ biểu
âm Latin hóa.
Với nhận thức như vậy, các giáo sĩ giỏi chữ Nôm kể trên
dĩ nhiên đã sớm nảy ra ý tưởng và niềm tin có thể dùng chữ cái Latin để phiên
âm chữ Nôm, biến thứ chữ gốc Hán có yếu tố biểu âm ấy thành thứ chữ biểu âm
Latin hóa dễ học dễ dùng cho việc truyền giáo.
Hiển nhiên, phiên âm một loại tiếng nói đã có chữ viết
ghi lại âm của tiếng đó thì đơn giản nhiều so với việc phiên âm thứ tiếng nói
chưa có chữ viết –– ở thời xưa, đó là một công trình lao động sáng tạo cực kỳ
phức tạp, cần nhiều người làm trong hàng trăm năm.
Trên thực tế, các giáo sĩ kể trên dù rất ít người và làm
việc phân tán nhưng đã nhanh chóng tìm ra các chữ cái Latin thích hợp thay cho
các ký tự vuông tương ứng trong chữ Nôm và tạo ra loại chữ mới trong thời gian
ngắn kỷ lục: 32 năm (1617-1649). Năm 1617 Francisco de Pina đến Đàng Trong, năm
1619 đã viết xong một bản từ vựng tiếng Việt bằng chữ Latin. Năm 1631 Gaspar do
Amaral đến Đàng Ngoài, năm sau đã ghi âm rất tốt tiếng Việt, năm 1634 làm xong
một cuốn từ vựng tiếng Việt. Trong mấy cuộc gặp tại Macao (1630-1631), các giáo
sĩ đã xác định được 6 thanh điệu và tính đơn âm tiết của tiếng Việt. Năm 1649
Rhodes mang theo bản thảo Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum
Lusitanum et Latinum) rời Việt Nam. Năm 1651 Từ điển này được xuất bản tại Roma,
đánh dấu sự ra đời chữ Quốc ngữ Việt Nam.[4] Đây là lần đầu tiên trong lịch sử,
chữ viết biểu âm Latin hóa thành công ra đời tại khu vực ảnh hưởng của Hán ngữ.
Trong quá trình làm chữ Quốc ngữ, các giáo sĩ đã phải giải
quyết nhiều khó khăn gây ra bởi hệ ngữ âm tiếng Việt quá phong phú và mới lạ. Vấn
đề phức tạp nhất là phải nghiên cứu sáng tạo ra hệ thống ký hiệu thể hiện được
các thanh điệu sắc, huyền, hỏi. ngã, nặng, và các con chữ thể hiện được các ngữ
âm không có trong bộ chữ La tinh như ă, â, ê, ơ, ô, ư, đ. Bộ ký hiệu và con chữ
ấy làm nên cái gọi là “giày và mũ” trong nhận xét của một học giả nổi tiếng
Trung Quốc: “Chữ viết của Việt Nam sau khi phiên âm hóa, đầu đội mũ, chân đi
giày, rất nực cười”. Thực ra “mũ, giày” ấy là những sáng tạo hợp lý tới mức người
Việt xưa và nay đều không chấp nhận bất cứ thứ chữ Quốc ngữ nào không có các ký
hiệu và con chữ đó. Ví dụ gần đây công luận không tán thành một số phương án chữ
Quốc ngữ bỏ dấu. Ngoài ra các giáo sĩđã hiệu chỉnh những âm tiếng Việt mà chữ
Nôm chưa ghi chính xác, và hiện đại hóa ngữ pháp cùng cách viết, như đưa vào
các loại dấu ngắt câu, ngắt đoạn, dấu ngoặc, ký hiệu toán học, lối viết hoa, viết
tắt v.v…
Về hình thức, chữ Quốc ngữ khác hẳn chữ Nôm, nhưng về bản
chất cả hai đều là các hệ chữ viết ghi âm tiếng Việt; chữ Quốc ngữ trong Từ điển
Việt-Bồ-La thể hiện rất rõ mối tương quan với chữ Nôm.[5]
Sau mấy chục năm dầy công lao động sáng tạo, các vị giáo
sĩ nói trên đã hoàn thành việc phiên âm và biến đổi chữ Nôm thành một thứ chữ
biểu âm dùng chữ cái Latin –– loại chữ viết tiên tiến nhất, quốc tế hóa nhất thời
đó, về sau được gọi là chữ Quốc ngữ. Rõ ràng, chữ Quốc ngữ chính là chữ Nôm được
Latin hóa và hiện đại hóa.
Giả thử thời ấy chưa có chữ Nôm, chỉ có chữ Nho, thì việc
làm chữ của các giáo sĩ sẽ vô cùng khó khăn vì chữ Nho vốn là chữ Hán. Thực tiễn
cải cách chữ viết ở Trung Quốc đã chứng tỏ không thể dùng bất cứ bộ chữ cái nào
để phiên âm chữ Hán thành chữ biểu âm.
Năm 1582 giáo sĩ Dòng Tên người Ý Matteo Ricci đến Trung
Quốc truyền giáo. Ông rất giỏi Hán ngữ, đã dành nhiều năm nghiên cứu cách phiên
âm chữ Hán. Năm 1605 Ricci đưa ra phương án phiên âm chữ Hán bằng chữ cái
Latin, nhưng phương án này chỉ giúp người Âu học chữ Hán dễ hơn, chứ chưa phải
là một loại chữ viết mới. Về sau, giới trí thức Trung Quốc tiếp tục nghiên cứu
theo phương hướng của Ricci nhằm mục tiêu tạo ra một thứ chữ biểu âm có thể
thay thế chữ Hán mà họ muốn loại bỏ. Nhưng mọi cố gắng ấy đều không có kết quả.
Năm 1958 Ủy ban Cải cách chữ viết Trung Quốc làm ra Phương án phiên âm (Pinyin)
Hán ngữ dùng chữ cái Latin, nhưng chỉ có tác dụng phụ trợ là ghi chú âm cho chữ
Hán, không phải là một loại chữ viết. Từ năm 1986 Ủy ban này không còn nhắc tới
mục tiêu tạo ra loại chữ biểu âm thay cho chữ Hán nữa, và nói tương lai của chữ
Hán sẽ do các thế hệ sau quyết định. Hiện nay Trung Quốc vẫn dùng chữ Hán như
cũ, có kết hợp dùng phương án Pinyin Hán ngữ chỉ để ghi chú âm đọc chữ Hán.
Tóm lại, việc dùng chữ cái Latin phiên âm chữ Nôm thành
chữ biểu âm đã thành công ngay từ giữa thế kỷ 17, trong khi mọi cố gắng tương tự
đối với chữ Hán cho tới nay vẫn bất thành. Tại sao vậy? Đó là do chữ Nôm có yếu
tố biểu âm, còn chữ Hán biểu ý không biểu âm; và tình trạng đó bắt nguồn sâu xa
từ chỗ tiếng Việt giàu âm tiết, tiếng Hán nghèo âm tiết.
Đến đây có thể kết luận: Chữ Nôm đã xây đắp nền tảng ngôn
ngữ để các giáo sĩ nói trên dựa vào đó tạo ra chữ Quốc ngữ. Toàn dân Việt Nam
mãi mãi ghi nhớ công trạng làm chữ Nôm của tổ tiên ta, coi chữ Nôm là một sáng
tạo ngôn ngữ xuất sắc góp phần quyết định sự hình thành chữ Quốc ngữ.
Sau cùng cần nhấn mạnh vai trò quan trọng của Kitô giáo.
Là hiện tượng văn hóa của số đông loài người, các tôn giáo lớn đều tôn sùng và
truyền bá tư tưởng nhân ái cao quý. Thế kỷ 17, các giáo sĩ Kitô giáo người Âu
khi đến Việt Nam truyền giáo đã kết hợp làm sứ mạng khai hóa dân bản xứ, khác hẳn
hành vi xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Thực dân Bồ Đào
Nha khi chiếm Brazil đã cưỡng bức đồng hóa dân bản xứ bằng cách bắt họ nói tiếng
Bồ, trong khi các giáo sĩ Kitô giáo người Bồ như Francisco de Pina … đến Việt
Nam truyền giáo đã không làm thế mà còn tìm cách Latin hóa chữ Nôm. Hơn nữa, de
Pina còn nghĩ tới việc dùng thứ chữ hiện đại này bắc cây cầu đối thoạiViệt Nam
với châu Âu văn minh, và tạo dựng một nền văn hóa mới cho nước ta. Đây thật là
một ý tưởng cao quý! Khi mới chiếm Việt Nam, thực dân Pháp từng chủ trương bắt
dân ta đời đời nói tiếng Pháp như chúng đã làm ở các thuộc địa châu Phi. Nhưng
giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes lại hăng hái làm chữ viết riêng giúp cho
người Việt giữ được tiếng mẹ đẻ. Nếu chưa có chữ Quốc ngữ thì nước ta ắt hẳn đã
bị người Pháp đồng hóa từ lâu.
Bởi vậy sẽ là sai lầm khi cho rằng các giáo sĩ đạo Kitô đến
Việt Nam truyền giáo là để phục vụ chính sách xâm lược của thực dân Pháp. Với
truyền thống Uống nước nhớ nguồn, dân tộc ta đời đời ghi ơn tất cả các giáo sĩ
Kitô giáo đã góp phần làm ra thứ chữ viết kỳ diệu ta dùng hơn trăm năm nay.
Và như vậy có thể nói chữ Quốc ngữ là thành quả kết hợp
trí tuệ của nền văn minh Việt với nền văn minh Kitô giáo, là món quà vô giá mà
các giáo sĩ Dòng Tên trao cho dân tộc ta trong một ngẫu nhiên lịch sử xảy ra ở
thế kỷ 17.
NGUYỄN HẢI HOÀNH
-------------------------------
[1] Thứ chữ này đến đời nhà Nguyên (thế kỷ 14) mới có tên “chữ Hán”. Ở
đây gọi như vậy cho tiện.
[2] Nguyễn Hải Hoành: “Một vài tìm tòi về ngôn ngữ”. Tạp chí Tia Sáng số
11 (5/6/2020).
[3] Lã Minh Hằng: “Đôi nét về thư tịch Hán Nôm Công giáo tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm”.
[4] Phạm Thị Kiều Ly: “Lịch sử chữ Quốc ngữ từ 1615 đến 1861: Quá trình
La-tinh hóa tiếng Việt trong trào lưu ngữ học truyền giáo”. TC Tia Sáng số
24 (20/12/2019).
[5] Nguyễn Ngọc Quân: “Chữ Quốc ngữ trong Từ điển Việt-Bồ-La trong tương
quan với cấu tạo chữ Nôm đương thời”.
Nhận xét
Đăng nhận xét