ĐẦU XUÂN NÓI CHUYỆN CHỮ NGHĨA
ĐẦU XUÂN NÓI CHUYỆN CHỮ NGHĨA
VỀ CÂU TỤC NGỮ “ĐÁNH NHAU CHIA GẠO, CHÀO NHAU ĂN CƠM
Tình cờ tìm thấy một bài viết của PGS. TS Phạm Văn Tình
trên LĐCT số 47 (ra năm 2009), bàn về câu tục ngữ [TN] vừa dẫn. Lấy làm
thích thú với nội dung bài viết, tôi bèn photo ra dăm bản và đem chia
sẻ cùng các cô bác, trong tổ hưu mình sinh hoạt.
[…] Đọc hết câu kết sau đây của tác giả (“[đây là] bài
học của lẽ đời mà mỗi người cần phải học và học sao cho thấm”), một bác, có
lẽ, là cao tuổi nhất tổ, liền lớn tiếng phán: “Nội dung câu TN này
đâu có gì mà sao anh TS nọ lại đao to búa lớn thế nhỉ?”.
Nghe xong câu bình phẩm, một bác khác liền thêm: “Cụ nói
chí phải! Đây chỉ là lời nhận xét bình thường về hai hiện tượng đối
nghịch nhau (và chả có liên quan gì với nhau), nhưng rất hay gặp trong
cuộc sống cơ cực, thiếu thốn mọi đường, tới độ cả hạt gạo cũng chả
có đủ mà ăn, của bà con ta ở thôn quê thời trước mà thôi, chứ đâu phải
là cái “lẽ nên theo khi chung sống cùng nhau trong làng, trong xóm”.
Cụ cao tuổi nhất lại tiếp: “Đúng thế đấy, cô ạ. Đây là
câu cửa miệng của dân quê tôi, nên tôi biết rất rõ. Nội dung của nó chỉ
giản dị như sau: “Đánh nhau là chuyện hay xảy ra khi chia gạo”. Bởi
lối chia chác bằng bơ, bằng đấu của các bà, các cô vùng tôi chả mấy
khi công bằng: bà này đong chặt, bà kia đong lơi; bà này thì gạt bằng
tay, bà kia lại gạt bằng ống gạt. Lắm khi cùng một thúng gạo, cùng
một bà đong, mà lần đầu được mười đấu, nhưng lần sau khảo lại chỉ còn
có chín đấu sáu, bảy lẻ. Thế là cãi nhau om tỏi, rồi nóng gáy lên,
họ túm tóc nhau, choãng nhau loạn xạ. Chung quy chỉ vì chuyện đong
thiếu, đong điêu”…
Thấy cụ hăng lên, tôi vội ngắt lời: “Lỗi phép bác, thế
còn vế sau thì nên hiểu thế nào, chưa thấy bác giảng”.
“À, mải chuyện quá, tôi quên khuấy đi đấy. Số là thế
này: chẳng riêng gì quê tôi, mà khắp cả Bắc Bộ đều có thông lệ là
khi đang ăn mà thấy có người đi qua, thì dù lạ, dù quen, cũng đều vội
lên tiếng mời (rơi): “Mời ông [/bà/bác/cô/cậu/anh/chị] xơi cơm!”. Mà
tiếng Việt mình thì anh còn lạ gì, “mời” cũng có nghĩa là “chào”; và
hai chữ ấy, như anh biết đấy, rất thường đi đôi với nhau để tạo thành
các cặp “mời chào”/ “chào mời”. Bởi thế, nội dung vế thứ hai chắc
hẳn cũng nên được cắt nghĩa là: “Chào (= tức mời cơm) nhau là chuyện
hay xảy ra khi ăn cơm”.
“À, trong bài còn có một chỗ chưa ổn nữa: tác giả cứ
đinh ninh rằng những người mới đánh nhau lần trước/tuần trước/tháng trước
thì dăm ba hôm sau/dăm ba tuần sau/ dăm ba tháng sau lại thổi cơm lên để
mời nhau ăn. Nói cách khác, khi cắt nghĩa, tác giả cứ đinh ninh rằng
hai vế trước sau của câu TN này phải gắn chặt với nhau. Nhưng trên câu
chữ làm gì có chuyện ấy!”.
“Chắc còn phải nói thêm điều này nữa: vốn hiểu biết về
vốn cổ dân tộc của cánh trẻ bây giờ hạn hẹp quá, nếu không nói là
quá ít ỏi. Cho nên, tôi thấy họ hay nhiễu sự. Chẳng hạn, có ông GS gì
đó đã giảng câu “Ăn khi đói; nói khi say” trong một cuốn từ điển gì đó
mà thắng cháu nội tôi mới mượn về cho tôi đọc, như sau: “Chế người say
rượu hay nói nhiều”. Nghe mà không sao nhịn được cười! Thế anh có biết
câu ấy, hồi còn trai, tôi được bố tôi giảng cho như thế nào không? Cụ
bảo nội dung của nó chỉ giản dị thế này: “Ăn là chuyện hay xảy ra
khi bụng đói; nói là chuyện hay xảy ra khi đầu óc đã ngà ngà say”…
“Gút lại, tôi nghĩ câu “Đánh nhau chia gạo; chào nhau ăn
cơm”, là câu còn chép thiếu hai chữ. Chứ lẽ ra nó phải là: “Đánh nhau khi chia
gạo; chào nhau khi ăn cơm”.
……
Tôi chỉ xin chép ra đây những lời bình phẩm của các bác, các
cô có tuổi trong tổ hưu mình đang sinh hoạt về câu TN ta đang bàn, để
độc giả có thêm tư liệu mà chất chính. Còn kết luận thế nào, xin để
người đọc tự rút ra.
“NGU DÂN” VÀ “DÂN NGU”
PHẢI CHĂNG ĐỒNG NGHĨA?
Hôm mùng 7 tháng Ba mới rồi, tại cuộc hội thảo “Văn học
và văn hóa tâm linh” do Viện Văn học tổ chức ở Hà Nội, PGS. TS Phạm Tú
Châu, dịch giả văn học uy tín, có phát biểu: “Khi mê tín [thì] cả trí thức
cũng trở thành ngu dân”. Đọc lời phát biểu vừa dẫn, chắc ai cũng cảm
thấy ngay đây là lời than phiền của tác giả về tệ mê tín vì nó đã làm
cho cả người trí thức cũng hoá thành kẻ dốt nát. Vậy, ngu dân và dân ngu phải
chăng là hai từ đồng nghĩa?
Trước khi trả lời câu hỏi, tôi xin kể lại câu chuyện diễn
ra hồi giữa thập niên 70 thế kỉ trước có liên quan tới GS Cao Xuân Huy,
(người đứng ra giúp các sinh viên lớp Hán Nôm tu nghiệp do Uỷ Ban KHXH
tổ chức) và cụm từ “chính tâm”.
Hồi ấy, phần đông anh em sinh viên lớp Hán Nôm theo học
cụ đều hiểu chính tâm là ‘[tấm] lòng ngay thẳng’. Nhưng theo
cụ thì hiểu như thế là nhầm, bởi lẽ “chính” trong tiếng Hán vốn chẳng
phải là adjectif (= tính từ), mà là verbe (= động từ); hơn nữa, đó
lại là thứ từ được giới Hán ngữ học châu Âu gọi là động từ trí
sử, hay là gây khiến [causatif] (nếu gọi tên theo thuật ngữ
hiện giờ). Nói cách khác, về mặt nghĩa, “chính” là ‘làm cho [trở
nên] ngay thẳng’, chứ chẳng phải là ‘ngay thẳng’, như lắm người vẫn
tưởng.
Để minh chứng, cụ dẫn ra lời dạy nổi tiếng của đức Khổng
Tử về các phẩm chất mà người quân tử cần có: Cách vật, trí tri,
thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Câu này
vốn có nghĩa là: ‘Quan sát sự vật, làm cho trí óc gia tăng năng lực
nhận thức, làm cho ý nghĩ [trở nên] chân thành, làm cho lòng [trở
nên] ngay thẳng, tu rèn bản thân, đưa việc nhà vào nền nếp, đưa đất
nước vào trạng thái ổn định, giúp thiên hạ an hưởng thái bình’.
Đến đây, chắc chúng ta đã có thể quay trở lại với hai chữ ngu
dân.
Chữ ngu trong cụm này, theo ý cụ Huy, chả phải
là ‘dốt nát’, mà có nghĩa là “làm cho dốt nát’. Tức cũng là
động từ trí sử.
Từ những gì vừa trình bày vắn tắt, ta có thể đi đến kết
luận: có lẽ tác giả Phạm Tú Châu đã nhầm khi ngỡ rằng “ngu dân” đồng
nghĩa với “dân ngu”. Chứng cớ? Chính sách ngu dân [của bọn thực
dân] ≠ *chính sách dân ngu.
Giá tác giả đổi trật tự trước sau của hai yếu tố “ngu”
và “dân”, như ta sắp làm dưới đây, thì lời phát biểu chắc chắn sẽ hợp
chuẩn ngay tức khắc: “Khi mê tín [thì ngay] cả trí thức cũng trở thành dânngu”.
VỀ NGHĨA CỦA CẶP “MÀ” VÀ ”NHƯNG”
Thoạt nhìn, nghĩa của cặp MÀ và NHƯNG có vẻ chẳng có
chút gì khác nhau. Ây thế nhưng trong thực tiễn dùng từ lác đác
chúng ta vẫn gặp không ít trường hợp không thể dùng từ này để thay thế
từ kia, và ngược lại. Như cặp câu sắp dẫn dưới đây là một minh chứng:
(1) Mua ngay đi, vì món ấy rẻ MÀ ngon.
(2) Cháu Vy mới học lớp năm NHƯNG đã giải được toán
lớp bảy.
Vậy, đâu là điểm khác biệt cốt lõi giữa hai từ đang xét?
Từ điển tiếng Việt của GS Hoàng Phê cùng các cộng sự
cho rằng:
MÀ là từ hay dùng làm từ nối (còn gọi là liên
từ) để gắn kết hai vế (có thể được diễn đạt hoặc bằng động từ hay
tính từ, mà cũng có thể hoặc bằng cả một cấu trúc Chủ–Vị) nhằm: (1)
biểu thị điều sắp nêu ra là không phù hợp với điều vừa nói đến, có
gì đó trái với lẽ thường: Nói mà không làm. Đói mà
chẳng buồn ăn. Khó thế mà vẫn làm được. Nó mà thi đỗ [thì
trời sập mất!]; (2) biểu thị điều sắp nêu ra là mặt khác, đối chiếu
bổ sung cho điều vừa nói đến: Tốt mà rẻ. Đã dốt mà lại
lười. Chẳng hay mà cũng chẳng dở. […].
Còn NHƯNG, tuy cũng là từ nối, nhưng hay dùng để gắn kết
hai vế biểu thị điều sắp nêu trái ngược với ý do điều vừa nói đến có
thể gợi ra: Việc nhỏ, nhưng có ý nghĩa lớn. Muốn đi xem nhưng
không có vé.
Đọc những lời diễn giải vừa dài, vừa rất khó nắm bắt
thực chất trên đây, chắc ít ai dám đoan chắc rằng mình có thể tóm gọn
sự khác biệt cốt lõi giữa hai từ ấy vào một vài lời vắt tắt. Bởi
thế, chúng ta đành phải đi tìm các nguồn khác. Theo một cây bút có uy
tín, thì MÀ và NHƯNG là cặp từ chuyên dùng để gắn kết hai vế đối
nghịch nhau. Song NHƯNG hay được dùng khi người nói muốn hướng sự chú ý
của người nghe vào thế đối nghịch về nghĩa giữa vế trước với vế sau.
Còn MÀ hay được dùng khi người nói muốn hướng sự chú ý của người nghe
vào thế đối nghịch giữa tiền giả định của vế đầu với nghĩa của vế
kế tiếp.
Đến đây, mấy điểm dị đồng cốt lõi giữa hai từ ấy coi
như đã được giải quyết xong, ngoại trừ một điều khá hệ trọng đối với
những ai chưa có dịp được làm quen với nghĩa học hiện đại: tiền giả
định, theo cách hình dung của giới nghĩa học, là gì?
Như chúng ta đều biết, giới ấy xem ra chưa thật hài lòng
lắm với việc phân nhỏ nội dung nghĩa của các từ ngữ thành một chùm các
nét nghĩa, chẳng hạn, như phân nhỏ nghĩa của MẸ thành ba nét: [1] ‘người phụ
nữ’, [2] ‘có con’ và [3] ‘nói trong mối quan hệ với người con ấy’. Tiến
thêm bước nữa, họ còn đòi hỏi cho biết giá trị thông báo của từng
nét đó, vì các nét nghĩa thường ứng phó khác hẳn nhau khi dự phần
vào các phép biến đổi nghĩa.
Giới nghĩa học gọi nhóm sau (tức nhóm không có giá trị
thông báo, vốn gồm nét đầu và nét cuối trong trường hợp MẸ) là tiền
giả định, và định nghĩa nó như là thứ điều kiện tiên quyết mà
từ đang xét cần đáp ứng để cho điều được đề cập tới trong câu chứa từ
ấy có thể diễn ra.
Để dễ phân biệt hai nhóm, họ còn dùng thủ thuật khá
giản dị sau: đặt một câu trong đó có chứa từ đang xét (như Cô Lan
nay đã là MẸ, chẳng hạn), rồi thử phủ định nó (như Cô Lan chưa bao
giờ làm MẸ). Các nét không bị phủ định (như nét thứ nhất và thứ ba
ở từ MẸ) được gọi là tiền giả định; còn các nét bị phủ định (như
nét thứ hai) thì gọi là nghĩa.
Vận dụng với cặp câu được dẫn ở đầu bài, ta thấy: MÀ sở
dĩ trở nên đắc địa khi dùng ở câu (1), bởi lẽ ở đây người nói muốn
hướng sự chú ý của người nghe vào thế đối nghịch giữa tiền giả định
của từ “rẻ” (= “dở”, xin đối chiếu thêm với câu tục ngữ “Của rẻ là
của ôi”) với nghĩa của từ “ngon” ở vế sau. Còn với câu (2) thì dùng NHƯNG
sẽ đắc địa hơn, bởi lẽ ý định của người nói là hướng sự chú ý của
người nghe vào thế đối nghịch đơn thuần về nghĩa giữa hai cụm “học lớp
năm” và “giải được toán lớp bảy”.
Xem vậy đủ thấy chỉ cần đưa thêm một khái niệm mới (là
tiền giả định) mà chúng ta đã xử lí gọn gàng và mau lẹ được vấn đề
thì quả chẳng hề uổng công chút nào!
Nguyễn Đức Dương
Nhận xét
Đăng nhận xét