DÙNG SAI CẢ TIẾNG MẸ ĐẺ (Kỳ 1)
DÙNG SAI CẢ TIẾNG MẸ ĐẺ
(Kỳ 1)
Hằng ngày, không khó lắm việc chúng ta thấy trên mặt báo những trường hợp
dùng sai tiếng mẹ đẻ. Trong ngôn ngữ nói có thể chấp nhận sự sai lệch, chứ ngôn
ngữ viết, trên văn bản cụ thể thì hoàn toàn không thể được.
Một bài báo viết về cậu học sinh đi thi quốc tế về, kể rằng mẹ cậu ra
sân bay đón, rất xúc động, "không giấu được niềm hạnh phúc".
Đành rằng, đó chỉ là cách nói, cách diễn đạt, thậm chí quen,
nhưng rất vô lý. Hạnh phúc thì cứ thế mà phô ra, càng bộc lộ rõ càng tốt, làm
quái gì phải giấu. Thể hiện rõ để mọi người được san sẻ, chung vui. Nếu có giấu
thì người ta cố giấu nỗi buồn, bất hạnh cá nhân, đừng ảnh hưởng đến người khác,
đến hoàn cảnh chung, chứ ai lại đi giấu hạnh phúc bao giờ.
Nhân tiện đây, xin đề cập đến những từ có liên quan đến trạng thái tình
cảm: nỗi, niềm, mối. Tôi đọc trên trang điện tử Báo Mới một bài viết
trong đó có dùng cụm từ "nỗi đe dọa".
Dường như cả người viết lẫn người biên tập không hiểu được khi nào dùng
"nỗi", khi nào dùng "mối". Trong tiếng Việt, gần với từ
"nỗi"
là từ "niềm", tạo thành cặp "nỗi niềm" để chỉ trạng
thái tình cảm, tâm trạng (vui buồn, đau xót, sung sướng...), ví dụ niềm vui, nỗi
buồn, niềm hạnh phúc, niềm tự hào, niềm hy vọng, nỗi khổ đau, nỗi nhớ, nỗi đắng
cay. Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du có câu tả tâm trạng Kiều:
"Nỗi mình thêm tức nỗi nhà/Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng". Cô Kiều
đang trong tâm trạng rất buồn, cả bản thân lẫn gia đình đều gặp chuyện không
hay, nên đều là "nỗi". Dường như có sự mặc định "nỗi" là để chỉ những
điều không hay, còn "niềm" cho điều hay.
Còn "mối" là từ để chỉ một hiện tượng
nào đó trong xã hội, quan hệ xã hội, ví dụ mối đe dọa, mối quan hệ, mối lo, mối
thâm tình...
Như vậy, trường hợp trên, đem cái từ chỉ tâm trạng ghép
vào với hiện tượng xã hội sẽ thấy khập khiễng, khó chấp nhận.
Lại một trường hợp khác không ổn về tiếng mẹ đẻ. Khi tường thuật buổi
ra mắt Hội đồng biên soạn Bách khoa toàn thư VN, có báo thuật lời một vị
phó thủ tướng, rằng "việc biên soạn Bách khoa toàn thư VN là một công việc
rất linh thiêng, trách nhiệm lớn với dân tộc, với cộng đồng".
Tôi cứ cho rằng báo đã chép sai, dùng từ sai chứ không phải người phát ngôn.
Rõ ràng có sự nhầm lẫn trong việc dùng hai từ "linh thiêng"
và "thiêng liêng".
Cứ tạm hiểu, "linh thiêng" là từ để chỉ điều gì đó rất
thiêng, rất linh, huyền bí, khó hiểu, ngoài cuộc sống trần tục, con người chưa
thể hiểu hết được. Ví dụ: ngôi đền linh thiêng, cây đa linh thiêng, bức tượng
linh thiêng, con chó đá linh thiêng. Trước những thứ này, cách tốt nhất là khấn
vái cho nó lành. Người xưa thậm chí còn quy định khi đi qua cửa đền thiêng phải
xuống ngựa (hạ mã) để tỏ ý kính sợ thánh thần, dù là quan chức lớn mấy đi chăng
nữa cũng không được trái lễ.
Còn "thiêng liêng" để nhắm chỉ sự vật, hành động,
tình cảm, con người, thậm chí lời nói, được coi là cao quý, đáng trọng
vọng, đáng tôn thờ, rất đặc biệt. Ví dụ: Biên soạn Bách khoa toàn thư VN là việc
thiêng liêng; chiến đấu bảo vệ đất nước là hành động thiêng liêng; lời thề
thiêng liêng; giây phút thiêng liêng (chẳng hạn khi được kết nạp đảng); tình
yêu thiêng liêng; tình mẹ thiêng liêng... Tức là phải rất đặc biệt, chứ chả ai
bảo ăn phở thiêng liêng, cấu véo nhau thiêng liêng bao giờ.
Có những từ ngữ tiếng mẹ đẻ, thuần Việt, nghĩa rất rõ ràng nhưng
báo chí lại dùng sai, thật
không hiểu nổi.
Nguyễn Thông
Nhận xét
Đăng nhận xét