I CỤT, Y DÀI, Y CÀ LẾT
I CỤT, Y DÀI, Y CÀ LẾT
Thuở bình minh của chữ quốc ngữ, các nhà làm từ điển còn xếp I và Y
chung một mục. Chưa tách biệt ra như hiện nay.
Từ điển Việt Bồ La (1651) ghi nhận
sự đại tiện bằng 2 cách: yả hoặc yẻ; nay chỉ còn gọn lỏn: ị. Và thật bất ngờ
khi từ iẻ cũng là cách gọi của gẻ. Gẻ là gì? Có 2 nghĩa: "Miếng giẻ, lấy gẻ
mà vá áo; Bản chất của loại tơ hoặc sợi như vải tốt gẻ: bản chất của loại vải
này tốt".
Với câu "Tốt mã dẻ cùi",
ai cũng hiểu rằng nhìn bề ngoài (tốt mã: mã là vẻ/dáng vẻ) nhưng bên trong lại
xấu xa, bẩn thỉu như (con chim) giẻ cùi: "Giẻ cùi tốt mã dài đuôi/ Hay ăn
cứt chó ai nuôi giẻ cùi".
Ngộ thay, từ giẻ trong thành ngữ
ấy, trong tiếng Việt lại chấp nhận cả 2 cách ghi: giẻ/dẻ. Nếu ở XVII phải là
cách viết jẻ chăng? Từ điển Việt Bồ La cho biết: "jì" tức
"gì" hoặc "jà" tức "già"…
Với từ y cũng có vài từ thông dụng,
phổ biến một thời, bằng chứng từ điển có ghi nhận nhưng nay đã "bỏ cuộc
chơi".
Chẳng hạn, "Yếc: Ngặt, bức.
Nói yếc là nói cho ngặt, nói cho tức, nói cho quá. Ở yếc là ở hiểm, ở bất
nhơn". Lại còn có "Ym: Mát mẽ, tư nhuận; để lâu, để trễ; Ym ẩn: giấu
giếm, che đậy. Ym ẩn đưa gian".
Đọc qua thấy lạ mắt quá, thật ra
đó là cách mà ông Huỳnh Tịnh Paulus Của giải thích từ Im. Mà "im" thời
thế kỷ XVII lại có nghĩa: "Đất tốt thích hợp để gieo giống" như A de
Rhodes đã cho biết. Tưởng rằng đã mất, nào ngờ hiện nay người miền Nam vẫn còn
sử dụng, một người nông dân dặn con: "Không sao đâu. Chỗ đất này im không
cần tưới quá nhiều nước".
I và Y rất ư gần gũi với nhau.
Đôi lúc còn có thể hoán đổi vị trí cho nhau. Vậy, thử hỏi có bao giờ y đi chung
với i không? Có đấy.
Trong hồi ký Núi Mộng gương
Hồ (NXB Trẻ-1998), nhà thơ Mộng Tuyết cho biết vào dịp Tết năm Canh Thìn
(1940) nhà thơ Đông Hồ có khai trương cửa hàng bách hóa mà bảng hiệu ghi rành
rành "Yiễm Yiễm thương điếm", sau đó, mở thêm ngành phát hành sách lấy
tên Yiễm Yiễm thư trang (tr.105). Ấy là cách ghi âm "Diễm Diễm" đấy
thôi.
Nhưng y cũng là một cách tự nhận,
tự nói về mình một cách khách quan như đang nói về người khác. Đọc truyện
dài Sống mòn của nhà văn Nam Cao, ta thấy rất rõ điều này, thí dụ:
"Người ta chỉ được hưởng những cái gì mình đáng hưởng thôi. Y đã làm gì
chưa?" - đó là câu thầy giáo Thứ nói với chính bản thân mình.
Y dài, ta vẫn thường gọi là
"y cờ rét". Nếu có câu hỏi vì sao gọi như thế, ắt không ít người ngắc
ngứ chăng?
Bèn sử dụng phương pháp "cần
cù bù thông minh", khi tra Pháp Việt từ điển của Đào Duy Anh, thấy rõ ràng
ràng, "cờ rét" là cách phiên âm từ tiếng Pháp: "Grec: thuộc về
Hy Lạp". Hiểu rằng, y nằm trong bản mẫu tự của người Hy Lạp, người Việt
vay mượn trong quá trình ghi âm và gọi "y cờ rét".
Dần dà, "y cờ rét" lại
biến âm thành… "y cà lết".
Thiết nghĩ, sở dĩ "y cờ rét"
không phổ biến bằng "y cà lết" là do người ta chọn lấy cách phát âm
mà từ đó, họ có thể hiểu rõ nghĩa.
Hiện tượng này đã phản ánh tính
chất khi tiếp một/nhiều từ nước ngoài, người Việt buộc nó phải "nhập gia
tùy tục". Cà lết là chuyển dịch khó khăn, chậm chạm bằng cách kéo lê chân,
không nhắc lên được hoặc phần dưới cơ thể chạm đất.
Từ nghĩa này, y cà lết một khi
"gia nhập" vào dòng tiếng lóng, nó lại còn dùng ám chỉ người tàn tật,
hai chân không bình thường. Cách nói này, nhằm làm nhẹ đi khiếm khuyết của người
đó.
Chẳng hạn, người này hỏi:
"Cô nàng sắp lên xe hoa cùng bạn thế nào?". Người kia đáp: "Nhan
sắc thì tuyệt, chỉ mỗi tội nàng y cà lết". Cách gọi i và y không chỉ có thế,
i được gọi i ngắn/ i cụt; y còn được gọi y dài.
I, tờ ( i, t) giống móc cả hai
I ngắn có chấm, tờ dài có ngang
Thời xóa nạn mù chữ trong phong
trào Bình dân học vụ, có lẽ i, tờ quen thuộc nhất, bởi lẽ đó là những mẫu tự được
dạy trước nhất. "Sách i tờ phát không cho học/ Liệu cô nàng đã đọc được
chưa?". "Lão ấy mà tiến sĩ à? I tờ thì có" là câu nhận xét người
đó học hành chẳng bao nhiêu, chữ nghĩa chưa đầy lá mít, chỉ mới biết đọc biết
viết.
Qua những dẫn chứng trên đây, ta
nhận ra rằng từ thuở bình minh của chữ quốc ngữ, sự phân biệt giữa I và Y chưa
thật rạch ròi. Trải dài theo năm tháng, người ta tự điều chỉnh lại cho phù hợp
với cách ghi âm, miễn sao đạt đến sự chuẩn xác nhất, hạn chế sự hiểu nhầm qua
nghĩa khác. Sự điều chỉnh này sở dĩ thành công vì nó xuất phát từ nhu cầu có thật
trong giao tiếp và cả trong quá trình hoàn thiện cách ghi âm bằng chữ quốc ngữ.
…………………………
Một khi "đơn thân độc
mã", đứng riêng biệt "mình ên", i chẳng có nghĩa gì cả. Thế
nhưng với y lại khác. Chẳng hạn, "Tớ với vừa nói chuyện với y". Y là
nó, hắn, chỉ ngôi thứ 3. Truyện Kiều có câu: "Tư gia nghỉ cũng thường thường
bậc trung"; hoặc một người hất mặt kênh kiệu hỏi: "Thế nào? va có nhà
không?" thì nghỉ/ va cũng hàm nghĩa như y.
------------------------------
LÊ MINH QUỐC
Nhận xét
Đăng nhận xét