Tiếng Việt Lắt léo: NGÀY XANH NHƯ NGỰA - Lê Minh Quốc
Tiếng Việt Lắt Léo:
NGÀY XANH NHƯ NGỰA
Tiếng Việt lắt léo, đa dạng
và lắm lúc cùng sự vật nhưng lại có nhiều từ diễn tả, diễn đạt khác nhau với
các sắc màu, sắc thái, thiên biến vạn hóa. Lần này là câu chuyện màu sắc.
Ví
dụ “mắt xanh” có phải con mắt đã được các chị em nhà mình trang điểm? Không, nó
có một hàm nghĩa khác, như lúc Từ Hải ướm lời hỏi Thúy Kiều: “Mắt xanh chẳng để
ai vào có không?”, có thể hiểu, bấy lâu nàng đã có ai lọt vào “tầm ngắm” của
nàng chưa?
Thế
nhưng, một khi đã nói “mắt xanh mũi lõ”, dứt khoát đích thị…mắt xanh.
Đã
nói đến “mắt” nhân thể “đá giò lái” luôn qua cái mặt.
“Xanh
mặt”, không phải miêu tả cái bổn mặt xanh xao mà nhằm chỉ cảm giác đang sợ hãi,
khiếp đảm. “Mặt xanh” cũng vậy. “Lỡ ăn một miếng trầu anh/ Đêm lo ngày sợ mặt
xanh như chàm”.
Cũng
có lúc người ta sử dụng cả màu vàng: “Đánh không được người mặt đỏ như vang/
đánh được người rồi mặt vàng như nghệ”.
Nhưng
cái màu vàng, màu xanh trong câu “Mặt xanh, nanh vàng” cũng hàm ý đó chứ gì?
Không, nó nhằm chỉ sự ốm yếu bệnh tật, xanh xao vàng vọt; rồi nước da tất nhiên
là xanh nhưng xanh thế nào? Phải là “xanh rớt”, “xanh mét”, “xanh lè”, “xanh
lét”...
Tương
tự, còn có câu “mặt xanh, mày xám”. Cái mày xám ấy, có lúc cái mặt cũng “giành”
luôn, chẳng hạn, “mặt xám như gà cắt tiết”. Không những thế, còn có “mặt sắt
đen sì”, “mặt đỏ như gà chọi” v.v… Tuy nhiên, “mặt xanh như đít nhái” vẫn là
cách nói ấn tượng hơn cả.
Thi
sĩ Tản Đà có câu thơ: “Ngày xanh như ngựa đầu xanh bạc/ Hết cả giang hồ,
hết cả ngông”.
Ta
hiểu, “ngày xanh” chỉ thời tuổi trẻ, năm tháng đó qua nhanh như ngựa phi đường
xa. Đọc Kiều, ai lại không nhớ đến câu: “Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”;
hoặc nghe câu “đầu xanh tuổi trẻ”.
Đầu
ắt có tóc. Tóc nhanh nhánh hạt huyền, chẳng ai gọi tóc đen mà nói rất ư hình
tượng “tóc xanh”. Thế lúc tóc đã lẫn nhiều sợi tóc bạc, gọi thế nào? Gọi tóc
“muối tiêu”.
Gần
đây còn nghe thêm câu “thành ngữ” mới - nhằm khẳng định “đẳng cấp” của “dân
chơi cầu Ba Cẳng": “Túi ánh bạc, tóc ánh kim, chim ánh thép”. Thì ra
"ánh bạc” là một cách nói về tóc “muối tiêu” đấy thôi.
Thế
còn “chim ánh thép”?
Khoan
vội trả lời, ta hãy nhớ về “chim xanh” trước đã. Cụ Đào Duy Anh giải thích: “Có
truyện cổ tích nói rằng xưa vua Hán Vũ đế đương ngồi, có con chim xanh bay đến,
Đông Phương Sóc nói: “Đấy là sứ giả của Tây Vương mẫu đến”. Sau người ta lấy
chim xanh để tỉ dụ sứ giả, người đưa tin hay người làm mối”.
Chữ
xanh còn dùng trong trạng thái đói là “đói xanh xương” nghe rùng rợn thật! Vậy
lúc bình bình thường, chẳng đói khát gì, ăn no phởn phơ thì xương màu gì?
“Xương trắng” chăng?
Trả
lời câu này xin dành cho các nhà phẫu thuật, nhưng một khi nói “xương trắng”
không ngoài chỉ sự chết chóc. Chơi ma túy là chơi “hàng trắng”; chết vì hút
xách, chích choác thì gọi “cái chết trắng”.
Cũng
sắc màu trắng ấy, lại còn có nhiều sắc thái khác nhau. “Ăn trơn mặc trắng”,
chẳng phải người mặc y phục màu trắng mà chỉ sự cao sang, giàu có. “Áo trắng”
còn ngụ ý nói đến lứa tuổi hoa niên, học trò.
“Áo
trắng đơn sơ mộng trắng trong” (Huy Cận) là cái nghĩa đó. “Nói trắng ra” thì
“trắng” lại hàm nghĩa nói toạc móng heo, nói thẳng ruột ngựa, chẳng cần úp úp
mở, rào trước đón sau.
Khi
nghe kháo nhau: “Chàng kia tay trắng”, ta hiểu, không có vốn liếng, tài sản gì
sất; nhưng “trắng tay”, dứt khoát anh chàng kia trước đó đã có của ăn của để,
có xe, nhà cao cửa rộng nhưng vì một lý do gì đó, nay chẳng còn gì sất!
Này,
ông nhà thơ Huyền Kiêu quả quyết: “Hạ đỏ có chàng tới hỏi/ Em thơ, chị đẹp em
đâu?" Thế nhưng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lại nhìn thấy “hạ trắng”.
Còn
các bạn thanh thiếu niên ngày nay lại cảm nhận nó màu xanh! Bằng chứng đây nè:
“Mùa hè xanh” - đang là một hoạt động cộng đồng đã và đang diễn ra từ nhiều năm
nay.
Ôi,
cái màu xanh tưởng chừng như đơn giản mà cũng lắm chuyện đấy chứ? Nhưng câu thơ
của Tế Hanh mới rắc rối hơn nhiều: “Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị” là
xanh ra làm sao?
LÊ
MINH QUỐC
Nhận xét
Đăng nhận xét