MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA TIẾNG VIỆT - Nguyễn Hưng Quốc
MỘT
ĐẶC ĐIỂM CỦA TIẾNG VIỆT
Bạn
thử dịch câu dưới đây sang tiếng Việt giùm tôi nhé.
He
goes to Saigon.
Cái
câu có cấu trúc đơn giản và gồm những chữ hầu như người mới học tiếng Anh nào
cũng đều biết, riêng tôi, thú thực, tôi không biết dịch sao cả.
Có
hai chỗ tôi không dịch được.
Thứ
nhất, chữ “he”, đại từ nhân xưng chỉ ngôi thứ ba số ít. Trong tiếng Việt, trên
nguyên tắc, nếu chúng ta không biết chữ “he” ấy ám chỉ người nào và người ấy có
quan hệ gì với người kể chuyện, chúng ta không thể dịch chính xác được. “Ông
ấy” hay “anh ấy” ư? Nhưng nếu người kể chuyện đang nói về một em bé thì sao?
Thì phải dịch là “em ấy”, dĩ nhiên. Còn nếu em bé ấy là con trai của người phát
ngôn thì phải dịch là “con tôi”; nếu đứng ở vai em và nếu cần lịch sự, thì dịch
là “cậu ấy” hay “chú ấy”. Nếu câu văn ấy xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết
thì tùy theo tính cách của nhân vật, có thể dịch là “chàng” hay “gã” hay “hắn”
hay “lão” hay “nó” hay “y”, hay, xưa hơn một chút, “va”, và xưa hơn nữa, “nghỉ’
(như trong câu Kiều: “Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung”), v.v...
Nhưng
cứ tạm cho “he” là “ông ấy” thì chúng ta lại đối diện với vấn đề thứ hai này
nữa: Động từ “to go”. “Đi” chăng? Ừ, thì cũng được. Nhưng nếu ông ấy đang ở Hà
Nội thì thường người ta không nói “đi Sài Gòn”. Mà là “vào Sài Gòn”. Và nếu
người ấy đang ở Cần Thơ hay Đà Lạt, chẳng hạn, người ta sẽ nói: “Ông ấy lên Sài
Gòn” hay “Ông ấy xuống Sài Gòn”. Nếu địa danh ấy ở miền Trung hay miền Bắc, ví
dụ Huế hay Hà Nội, thì người ta có thể nói: “Ông ấy ra Huế / Hà Nội”, v.v...
Trong
trường hợp thứ nhất, chúng ta thấy rõ là các đại từ nhân xưng trong tiếng Việt
không phải chỉ liên hệ đến vai trò trong hành ngôn (người nói – ngôi thứ nhất;
người nghe – ngôi thứ hai; hay người được đề cập – ngôi thứ ba) như trong các
ngôn ngữ Tây phương mà còn gắn liền với (a) tuổi tác, (b) địa vị xã hội, (c)
tính cách; (d) quan hệ với người phát ngôn, và (đ) tình cảm hay thái độ của
người phát ngôn, v.v... Tất cả các yếu tố này thường xuyên thay đổi, do đó,
cách xưng hô cũng biến hóa theo.
Trong
trường hợp thứ hai, động từ chỉ việc di chuyển gắn liền chặt chẽ với yếu tố địa
lý (lên/xuống), và riêng trường hợp của vào/ra, còn gắn liền với yếu tố lịch
sử. Ai cũng biết, “vào” là động từ chỉ sự di chuyển từ một không gian rộng đến
một không gian hẹp; “ra”, ngược lại, từ một không gian hẹp đến một không gian
khác rộng hơn. Nhưng tại sao đang ở miền Nam, người ta lại “ra” miền Trung trong
khi miền Trung rõ ràng là hẹp hơn miền Nam hẳn? Để trả lời câu hỏi ấy, người ta
phải quay ngược lịch sử về tận thời Lý và đầu nhà Trần, lúc biên giới phía nam
của Việt Nam chỉ dừng lại ở đèo Ngang: lúc ấy, trên bản đồ Việt Nam, phía Bắc
đồng nghĩa với rộng và phía nam đồng nghĩa với hẹp. Chính trong bối cảnh ấy,
hai chữ “vào” (nhập) và “ra” (xuất) được ra đời.
Mà
không phải chỉ có các động từ lên/xuống/vào/ra, ngay cả các danh từ chỉ vị trí
như trong hay ngoài, trên hay dưới cũng đều như thế. Ở các ngôn ngữ khác, ít
nhất là các ngôn ngữ tôi biết, trong là trong, ngoài là ngoài, cũng như trên
khác hẳn với dưới. Nhưng trong tiếng Việt thì khác. Trong hai câu “Ông ấy đứng
trong vườn nhìn ra ngoài đường” và “Ông ấy đứng ngoài vườn nhìn vào trong nhà”
thì vị trí của người được gọi là “ông ấy” không có gì thay đổi cả. Vẫn đâu đó
trong không gian của một khu vườn thôi. Vậy mà lúc thì “trong vườn”, lúc thì
“ngoài vườn”. Cũng tương tự như vậy, chúng ta có thể nói về ai đó là ông hay bà
ấy ngồi trên nền nhà hay ngồi dưới nền nhà. Ý nghĩa giống hệt nhau.
Cả
hai trường hợp vừa kể, đại từ nhân xưng và động từ chỉ phương hướng (và cùng
với chúng, danh từ chỉ vị trí), cho thấy một đặc điểm nổi bật của tiếng Việt:
tính tình thái (situational), trong đó, nổi bật nhất là tính liên hệ
(relational). Mỗi cách nói năng hay viết lách đều gắn liền với một hoàn cảnh
nhất định và với những mối quan hệ nhất định. Trong các ngôn ngữ khác, kẻ phát
ngôn, bất kể tuổi tác, địa vị, tư cách, tâm trạng và bất kể đang nói chuyện với
ai, đều là “I” (tiếng Anh) hay “Je” (tiếng Pháp) cả. Và người nghe, cũng vậy,
lúc nào cũng là “you” hay “tu/vous”. Lúc nào cũng vậy. Trong tiếng Việt thì cách
xưng hô của cái người phát ngôn ấy cứ thay đổi xoành xoạch tùy theo các quan hệ
và cũng tùy cả tình cảm của người phát ngôn nữa. Trong các ngôn ngữ khác, trong
bao giờ cũng là trong và ngoài bao giờ cũng là ngoài, nhưng trong tiếng Việt,
với người ở trong nhà thì cái kẻ đang đứng “trong” vườn lại trở thành “ngoài”
vườn; ngược lại, với kẻ đang đứng ngoài đường thì cái người đứng “ngoài” vườn
ấy lại biến thành người “trong” vườn, v.v...
Theo
tôi, chính tính tình thái ấy là nguyên nhân chính dẫn đến sự thiếu vắng thói
quen tư duy trừu tượng cũng như truyền thống triết học của Việt Nam. Lâu nay,
nhiều học giả, từ Phạm Quỳnh đến Võ Phiến, đều giải thích sự thiếu vắng ấy xuất
phát từ yếu tố từ vựng: tiếng Việt thiếu hẳn các từ trừu tượng hay nói theo chữ
của Phạm Quỳnh, phần “hình nhi thượng”.(1) Nhưng thiếu thì mượn. Và người Việt
cũng đã vay mượn rất nhiều từ trừu tượng từ chữ Hán. Nhưng mượn rồi thì sao?
Khả năng tư duy trừu tượng vẫn èo uột và một nền triết học đặc sản của Việt Nam
vẫn cứ là một mơ ước xa vời của hết thế hệ này đến thế hệ khác.
Tại
sao?
Theo
tôi, nó nằm ở tính tình thái của tiếng Việt. Xin nhấn mạnh: của tiếng Việt chứ
không phải của phần từ vựng trong tiếng Việt. Chính thói quen bao giờ cũng nhìn
sự vật và sự việc từ một góc nhìn cụ thể, trong những quan hệ cụ thể đã ngăn
cản khả năng trừu tượng hóa của người Việt.
Khi
năng lực trừu tượng hóa còn yếu, triết học vẫn còn là một giấc mơ xa xăm.
Chú
thích:
1.Xem
bài “Đố kỵ cái trừu tượng” của Võ Phiến trên Tiền Vệ:http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=505
Nhận xét
Đăng nhận xét