Bài 21-VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ NHỮNG ĐỊNH MỆNH XUI XẺO
Bài 21
VIỆT NAM CỘNG HÒA
VÀ NHỮNG ĐỊNH MỆNH XUI XẺO
Nhìn lại lịch sử,
chúng tôi thấy câu ngạn ngữ "hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai" sao
nó đúng quá: tai bay vạ gió thì luôn theo nhau mà đến với Việt Nam Cộng Hòa,
còn những cái may mắn thì ít khi nó trở lại.
Thời Tổng thống Ngô
Đình Diệm: sau bao nhiêu gian lao với Pháp, ông đã khai sinh ra nền Cộng Hòa.
Sau đó xây dựng được
những thành tích vẻ vang của "Năm Năm Vàng Son 1955-1960," (độc giả
xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 13). Nhưng vừa tới năm 1961 thì ông phải đối
đầu ngay với những giao động khôn lường: nửa năm đầu thì Tổng thống John F.
Kennedy hết sức ủng hộ, tới nửa năm sau, bang giao Việt - Mỹ rơi vào khủng hoảng.
Sau cùng thì trong bối
cảnh dầu sôi lửa bỏng vào dịp Lễ Phật Đản thứ 2507 (ngày 8/5/1963), TT Kennedy
gửi ông Henry Cabot Lodge sang làm Đại sứ thay thế ĐS Frederick Nolting về hưu.
Nolting là người ủng hộ
ông Diệm. Ông Lodge là người mưu mô, nham hiểm, có nhiều thành kiến về ông Diệm.
Vì tham vọng muốn lập thành tích để ra ứng cứ tổng thống vào năm 1964 cho nên
ông đã dùng đủ mọi mưu lược triệt tiêu Tổng thống Diệm với hậu quả là phá nát nền
Đệ Nhất Cộng Hòa mùa Thu 1963. Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY I.
Tới Đệ Nhị Cộng Hòa, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu lại gặp ngay một tay HENRY nữa - Henry A. Kissinger. Về
ông này, ta có thể đặt câu hỏi: ở một cường quốc vĩ đại như Hoa Kỳ, biết bao
nhiêu người vừa tài, vừa đức, vừa có tâm, vừa có tầm mà lại không lên được tới
địa vị quyền hành như ông Kissinger?
Ông này còn mưu lược,
gian dối hơn Cabot Lodge gấp mấy lần. Kissinger đã đạo diễn chính sách của Hoa
Kỳ về Việt Nam trong gần sáu năm rưỡi, tức là trên hai phần ba thời gian của Đệ
Nhị Cộng Hòa.
Cái nguy hiểm cho cả Mỹ
lẫn Miền Nam là ông này thích hành động bí mật và một mình.
Trong một cuộc phỏng vấn
với nữ ký giả người Ý, bà Oriana Fallaci, ông giải thích rằng sở dĩ ông có sức
mạnh là nhờ ở lối hành động một mình:
"Điểm chính là
lúc nào tôi cũng hành động một mình. Người Mỹ thích cái đó vô cùng. Người Mỹ
thích hình ảnh một gã chăn bò dẫn đầu một toán di dân, một mình trên lưng ngựa,
đi đầu, thủng thẳng tiến vào một tỉnh lỵ, một thị xã; chỉ mình với ngựa thôi,
không có gì khác. Có thể là không có cả súng nữa, là vì gã ta không cần bắn. Gã
chỉ hành động bằng cách là ở đúng chỗ, vào đúng lúc, thế thôi. Nói gọn hơn, gã
là một cao bồi miền Tây."
Tôi gọi ông này là Đao
phủ HENRY II.
Nhân dịp 30 tháng Tư,
chúng tôi xin chia sẻ với đồng hương một vài cảm nghĩ về số phận long đong của
cả hai nền Cộng Hòa vào lúc hoàng hôn thê lương ảm đạm.
Khi Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ
Những cái xui xẻo đã xảy
ra liên tục cho Tổng thống Ngô Đình Diệm trong ba ngày cuối cùng của cuộc đời
ông (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 22).
Ngày 3/03/1963 Tòa Bạch
Ốc gửi mật điện chỉ thị cho Đại sứ Lodge là: "phải thông báo đầy đủ cho Tướng
Harkins (tư lệnh quân đội Mỹ ở Miền Nam) trong mọi giai đoạn, và sử dụng những
khuyến cáo của cả Harkins lẫn Smith," và "tất cả chỉ thị cho Conein
(người trung gian với nhóm tướng lãnh đảo chính) cũng phải được thông qua ý kiến
của Harkins và Smith." Nhưng vào những giờ phút chót, ông Lodge đã trái lệnh
Tổng thống, không chịu bàn bạc, thông báo gì với ông Harkins (vì Harkins hết sức
bênh vực TT Diệm);
Cố vấn Ngô Đình Nhu, người bị sát hại
cùng anh ông, Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa năm 1963
Cùng ngày 30/03, Đại sứ
Lodge hoãn chuyến đi Washington. Ông đã định đi vào ngày 31 tháng 10. Chỉ thị từ
Washington là khi ông Lodge đi vắng thì Tướng Harkins sẽ thay thế ông để điều
khiển ở Sàigòn. Nếu ông Harkins ở lại thì khó có thể đảo chính. Sau cùng,
Washington lại quyết định cho phép ông Lodge hoãn chuyến đi vài ngày. Lodge muốn
ở lại Sàigòn để theo rõi đảo chính ngày hôm sau.
Ngày 31 tháng 10 là
ngày trước đảo chính. Vì ngày đảo chính (mồng 1 tháng 11) là ngày Lễ Các Thánh,
ngày lễ của người Công giáo, nên ông Diệm có thể đi kinh lý hoặc thăm viếng chỗ
này chỗ kia. Cho nên Tướng Trần Văn Đôn đề nghị với TT Diệm là ông nên tiếp xã
giao Đô đốc Harry Felt (Tư lệnh quân lực Mỹ Thái Bình Dương) vừa tới Sàigòn. Đề
nghị như vậy là để có cớ thuyết phục TT Diệm ở lại Dinh Gia Long trong ngày đảo
chính cho chắc ăn.
Chính ông Đôn đã viết
lại trong cuốn hồi ký Our Endless War - Inside Vietnam:
"Sáng ngày 31
tháng 10, tôi vào dinh gặp Tổng thống Diệm để hỏi về vấn đề Đô đốc Felt đến
Sàigòn, và dò hỏi xem có phải vì ông không có mặt ở Sàigòn vào ngày mai nên
không tiếp ông Felt được hay không? Ông Diệm ngạc nhiên vì không biết tin ông
Felt tới Sàigòn."
Vì Tướng Đôn đề nghị,
TT Diệm đã quyết định ở lại Sài gòn để tiếp Đô đốc Felt vào ngày 1/11.
Buổi sáng ngày 1 tháng
11, khi TT Diệm tiếp hai ông Felt và Lodge, ông bất chợt hỏi ông Lodge rằng ông
biết đang có âm mưu đảo chính nhưng không biết rõ tướng tá nào muốn đảo chính.
Ông Lodge trả lời một cách quanh co: "Tôi không nghĩ rằng Tổng thống phải
lo ngại gì cả." Như vậy là để đánh lừa ông Diệm;
Một chuyện nữa hết sức
quan trọng, đó là cuối cùng, như đã đề cập trên đây, Tổng thống Diệm đã muốn
làm một nghĩa cử ôn hòa với cả Đại sứ Lodge, cả Tổng thống Hoa kỳ. Vì biết ông
Lodge sắp lên đường về Washington, ông dặn ông Lodge là khi về tới Washington
thì nên gặp hai ông Colby (trưởng trạm CIA ở Sàigòn trước đây) và Nolting (cựu
Đại sứ) để bàn bạc về vấn đề giải quyết chuyện ông Nhu cho ổn thỏa.
Rồi ông gửi một thông
điệp cho TT Kennedy nói:
"Tôi bằng lòng chấp
nhận tất cả những đề nghị của Tổng thống Kennedy một cách hết sức nghiêm chỉnh,
và muốn thực sự thi hành những điều này, chỉ còn vấn đề thời gian tính."
Tổng thống JF Kennedy bị ám sát ngày
22/11 cũng trong năm 1963 ở Dalla
Chắc ông Lodge cũng
còn một chút lương tâm và cho rằng như vậy là đã có thể đi tới chỗ hòa hoãn với
ông Diệm được rồi, nên ông có báo cáo về Washington thông điệp này.
Thế nhưng, vô tình hay
hữu ý, theo Mark Moyar thì ông Lodge lại gửi điện tín này theo thủ tục 'ưu tiên
thấp nhất' nên khi thông điệp này tới Washington thì tiếng súng đã bắt đầu nổ ở
Sàigòn rồi. Theo một tác giả khác, James W. Douglas trong cuốn JFK and The
Unspeakable thì Lodge đã trì hoãn để khi Kennedy nhận được điện tín này thì đã
quá trễ.
Ngày 1 tháng 11 cũng
là ngày sinh nhật của Đại tá Hồ Tấn Quyền, Tư lệnh Hải quân, là người trung
thành với TT Diệm và đã cứu ông trong dịp đảo chính tháng 2 năm 1962.
Sau khi chơi quần vợt
với một số đồng đội, họ mời ông dùng cơm trưa để mừng sinh nhật thứ 36 của ông.
Thoạt đầu, ông đã từ chối. Buổi sáng hôm ấy, ông cũng đã chột dạ vì thấy có những
cuộc chuyển quân hơi lạ nên muốn theo dõi để báo cáo cho ông Diệm. Nhưng rồi viên
sĩ quan phụ tá cố nài ép nên ông nể lòng. Lúc đang trên đường đi tới một quán
nhậu ở ngoại ô Sàigòn, ông đã bị sát hại. Như vậy là ông Quyền đã đi trước và dọn
đường tới nghĩa trang cho hai ông Diệm-Nhu.
Theo tác giả Mark
Moyar (trong cuốn Triumph Forsaken) thì "khi cuộc đảo chính sắp bắt đầu, một
viên sĩ quan chỉ huy lữ đoàn Lực lượng Đặc biệt đề nghị với Tổng thống Diệm cho
ông dùng xe thiết giáp tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính để bắt trọn ổ
số Tướng lãnh đang họp hành. Thành công là chắc chắn, viên sĩ quan cố thuyết phục
ông Diệm, vì chỉ có một số lính đang tập sự đứng gác ở Tổng Tham Mưu, và đúng
như vậy.
Nếu những tướng chủ
mưu bị bắt thì quân đội đảo chính tất sẽ bị rối loạn.
Nhưng TT Diệm không
cho phép, ông nói: "Quân đội phải tiết kiệm súng đạn để chống Cộng, và
tránh đổ máu," rồi thêm: "Chỉ cần bảo vệ Dinh Gia Long, nhà Bưu điện
và Tổng Nha Ngân khố."
GS Nguyễn Tiến Hưng gọi ông Henry
Kissinger (bìa trái hình) là Đao phủ Henry II
Như đề cập trên đây,
sau khi tiếng súng đảo chính đã vang dội, Tổng thống Diệm gọi giây nói cho Đại
sứ Lodge vào lúc 4 giờ 30 chiều (ngày 1 tháng 11) để hỏi về thái độ của Hoa kỳ.
Ông Lodge trả lời lơ mơ là ông không biết gì để nói nhưng có đề nghị với ông Diệm
là sẽ cho xe cắm cờ Mỹ đến Dinh Gia Long đưa ông Diệm ra phi trường, rồi dùng
máy bay riêng của đại sứ để chở ông ra khỏi nước, nhưng TT Diệm từ chối. Nhưng
trái với điều mà nhiều tác giả đã viết, cuộc điện đàm này không phải là trao đổi
cuối cùng giữa hai người. Vẫn còn một cú điện thoại khác nữa.
Cú điện thoại thứ hai
là lúc ở tại nhà thờ Cha Tam, ông Diệm đã gọi ông Lodge để yêu cầu giúp đỡ
phương tiện để ra đi, vì ông Lodge đã hứa rằng "Nếu tôi có thể làm được gì
để giúp cho an toàn của Ngài thì Ngài cứ gọi tôi." Nhưng bây giờ ông Lodge
lại trả lời là Tòa Đại sứ Mỹ chỉ có thể cho ông trú ẩn và bất cứ điều gì khác,
nhưng không thể giúp phương tiện chuyên chở ông ra khỏi nước. Như vậy là trái hẳn
với đề nghị của ông Lodge chiều hôm trước. Ông Mike Dunn, Phụ tá trưởng của đại
sứ - là người đứng bên ông Lodge khi ông này nói diện thoại với ông Diệm - đã
xin tự nguyện đến chở hai ông Diệm, Nhu đi để bảo vệ cho hai ông, nhưng ông
Lodge đã không đồng ý! "Tôi thật ngạc nhiên là ta đã không làm gì để giúp
cho hai anh em họ Ngô," ông Dunn phàn nàn.
Một nhân chứng nữa
cũng khẳng định về việc này là nhà báo Joseph Fried của tờ New York Daily News
trong một báo cáo vào ngày 5 tháng 11, 1963.
Sau khi ông Lodge từ
chối giúp đỡ, Tổng thống Diệm hoàn toàn thất vọng, khoảng 7 giờ sáng ngày mồng
2 ông quyết định gọi điện thoại cho Bộ Chỉ huy Đảo Chánh thông báo là ông đã ra
lệnh cho lính phòng vệ Phủ tổng thống ngưng bắn và ông đầu hàng vô điều kiện.
Đây là một việc không
may mắn nhất cho TT Diệm vì cho tới ngày đảo chính, nhóm tướng lãnh vẫn còn
nghi ngờ nhau, chưa có sự tin tưởng và đồng ý hoàn toàn. Chính TT Thiệu đã kể lại
(với Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân) là "nếu ông Diệm và ông Nhu không ra trình diện
(gọi điện thoại) vào sáng ngày 2 tháng 11, chỉ cần nán lại tới trưa cùng ngày
thì các tướng lãnh sẽ lên máy bay chạy hết vì lo sợ và nghi ngờ lẫn nhau"
là đã mắc mưu ông Nhu.
Trước đó, trong giai
đoạn chuẩn bị đảo chính, Tướng Paul Harkins, Tư lệnh Mỹ ở Việt Nam cũng báo cáo
về cho tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Tham Mưu Liên Quân về nhóm tướng lãnh:
Bà Nhu, Trần Lệ Xuân cùng con gái
trong một chuyến công du nước ngoài
"Tôi thấy chúng
ta có một tổ chức của nhóm người thật hoang mang trong đó mọi người nghi ngờ mọi
người khác."
Các tướng lãnh yêu cầu
Conein sắp xếp máy bay, nhưng CIA trả lời là cần 24 giờ thì mới thu xếp được,
nhưng thật ra là đã có sẵn một chiếc máy bay ở Sàigòn để chở Đại sứ Lodge về
Washington và ông này đã hoãn chuyến đi. Dù sao, khi nghe thấy nói đến 24 giờ,
Tướng Minh gắt lên "Chúng tôi không giữ họ lâu thêm được nữa."
Sau này, Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu (lúc đó là Đại tá) còn kể lại với chúng tôi rằng:
"Khi được lệnh
đánh Dinh Gia Long, ông đã có ý định tìm TT Diệm và mời ông lên xe jeep mở mui
để về Bộ TTM rồi đưa ông đi ra ngoại quốc, nhưng khi chiếm Dinh xong thì thấy
ông Diệm đã đi rồi. Ông Thiệu thêm: "Nếu như TT Diệm đi xe jeep mui trần
như vậy thì không ai dám sát hại ông..."
Đến khi ông Thiệu được
tin TT Diệm gọi điện thoại về Bộ Tổng Tham Mưu, ông còn đề nghị với Tướng Minh
để cho ông đi đón TT Diệm từ nhà thờ Cha Tam, nhưng ông Minh gạt đi và nói
"Khỏi phải lo, đã có người rồi."
Bất hạnh cuối cùng của Đệ Nhị Cộng
Hòa
Tháng 2/1972, TT Nixon
đi Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao. Dịp này ông đã đảo ngược "chính sách ngăn
chặn Trung Quốc" (containment of China). Khi mở cửa Bắc Kinh thì ông đóng
cửa Sàigòn, và khi bắt tay với ông Mao thì buông ngay tay ông Thiệu (như chúng
tôi đã viết trong cuốn Tâm Tư Tổng Thống Thiệu).
Sau đó Nixon -
Kissinger áp lực Miền Nam ký Hiệp Định Paris (1/1973). Từ đó những cái xui xui
xẻo tới dồn dập:
Ngược lại với những
cam kết của TT Nixon là sẽ tiếp tục viện trợ, VNCH vừa ký kết một hiệp định hết
sức bất lợi thì lại bị cắt xén viện trợ thật bất ngờ và thật nhanh;
Còn được chút ít viện
trợ thì lại bị ngay cú 'sốc' siêu lạm phát (do chiến tranh Israel - Ai Cập vào
tháng 10/1973) làm tiêu hao mãi lực của viện trợ. Một thùng dầu thô đang từ
4USD vọt lên 12 USD.
Tới khi viên trợ bị cắt
hết, Miền Nam xoay xở đi vay Quốc Vương xứ Saudi để mua tiếp liệu. Vua Saud al
Faisal vừa đồng ý cho vay 300 triệu USD thì lại bị người cháu ruột hạ sát thê
thảm ngay trong hoàng cung. Ông nằm xuống vào đúng ngày cố đô Huế bị bỏ ngỏ.
Tổng thống Johnson và Tổng thống
Thiệu tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Việt 20/07/1968 ở Honolulu
Trên chiến trường, lúc
bị tấn công, Ban Mê Thuột gọi không quân đến yểm trợ. Phi vụ vừa tới thả bom
thì một trái rơi trúng ngay Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23;
Mất Ban Mê Thuột, có lệnh
rút Pleiku. Ngày 18 tháng 3, quân dân hoảng hốt rút trên con đường 7B đẫm máu.
Vừa về tới Phú Bổn thì bị kẹt ngay vì công binh chưa làm xong cây cầu nổi như
đã dự tính: đoàn người di tản chịu thêm một trận pháo kích bên bờ sông Ea Pha.
Sau này Tổng Thống Thiệu kể lại cho tôi rằng ông vẫn còn thắc mắc về chuyện tại
sao Công Binh không làm xong cái cầu nổi? Đại tướng Viên cũng cho rằng "Sư
đoàn 320 của cộng sản sẽ không bao giờ truy kích kịp đoàn quân nếu chúng ta có
được cầu qua sông thiết lập đúng lúc, và giữ đuợc trật tự trong đoàn dân quân
di tản." Vì cầu không xong, cho nên:
Hai ngày sau mới rời
đuợc Hậu Bổn. Đoàn dân quân vừa tiến được chừng 20 cây số là khựng ngay, vì
"trước mặt đoàn di tản là Phú Túc đả bị địch chiếm."
Khi không quân tới cứu,"một
trái bom nữa rơi vào đoàn quân đi đầu, gây thương vong cho gần một tiểu đoàn Biệt
Động Quân."
Tôi đang dự một buổi họp
đầy căng thẳng tại Dinh Độc Lập sau cuộc rút lui thảm hại này thì Đại Tá Cầm
(Chánh Văn phòng Tổng Thống) bước vào đưa một tin bất hạnh: ông Paul Léandri,
trưởng phòng thông tấn xã Agence France Presse ở Sàigòn bị cảnh sát bắn chết.
Léandri loan tin
"có số lính người Thượng (Montagnards) đã nổi loạn ở Hậu Bổn, chống lại
quân đội VNCH'. Nha Cảnh Sát mời ông đến để thẩm vấn. Sau vài tiếng đồng hồ bị
giữ lại, Leandri bỗng nhiên bước ra khỏi phòng, nhảy lên xe và lái vút đi. Khi
cảnh sát huýt còi ngừng, ông cứ tiếp tục phóng. Cảnh sát rút súng bắn vài phát
vào bánh xe để giữ lại. Chẳng may một viên đạn lạc trúng ngay vao người.
Leandri gục chết tại chỗ.
Phóng viên ngoại quốc
vô cùng phẫn uất, phản kháng kịch liệt. Trong một tình hình vô cùng bất lợi cho
Miền Nam về tất cả mọi phương diện quân sự, chính trị, kinh tế, và bộ mặt Miền
Nam đã bị bôi nhọ bởi những hình ảnh dã man, độc tài, tham nhũng, bây giờ hình ảnh
Leandri bị bắn gục chết lại phóng đi khắp thế giới! Tổng Thống Thiệu nghe tin
này đã tái mặt. Ông liền chấm dứt, bước ra khỏi phòng họp.
Mấy ngày hôm sau,
trong một phiên họp khác ở Văn Phòng Thủ Tướng, lại có tin chiếc máy bay vận
chuyển C-5A chở đám trẻ em mồ côi vừa cất cánh ở Tân Sơn Nhất đã bị nổ tan. Chết
trên 200 trăm em bé! Vào chính lúc đó lại đang có những chống đối ngay tại
Washington về việc di tản người Việt Nam bằng máy bay Mỹ.
Ôi sao tin tức nó dồn
dập, bi đát đến thế vào lúc con thuyền Miền Nam nghiêng ngửa sắp chìm đắm!
Suy gẫm như vậy, nhiều
nguời trong đó có tác giả, cũng chỉ còn có cách là nghĩ đến chữ 'mệnh'.
...Ngày nay nhìn lại,
riêng phần tác giả thì cũng chỉ có một mong ước, đó là những thế hệ con cháu được
sống trong thời đại kỹ thuật, có nhiều phương tiện và hoàn cảnh thuận lợi để
liên lạc nên sẽ có thể gần gũi nhau hơn, thông cảm nhau hơn để rồi từng bước có
thể giúp cho vận mệnh đất nước trở nên tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn.
Chúng tôi nghĩ rằng
đây cũng là niềm hy vọng của đại đa số người dân Việt Nam hôm nay.
Tiến sỹ NGUYỄN TIẾN HƯNG
Cựu Tổng trưởng VNCH
--------------------------------
Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác
giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố
vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn
'Khi Đồng minh Tháo chạy' và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh
Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại
Virginia, Hoa Kỳ.
Nhận xét
Đăng nhận xét