Kỳ 10 - LÝ THƯỜNG KIỆT DÙNG LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ CHỐNG QUÂN TỐNG
Kỳ 10
LÝ THƯỜNG KIỆT
DÙNG LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ
CHỐNG QUÂN TỐNG
Khi bố trí một thế trận chống ngoại xâm,
Lý Thường Kiệt phải chọn địa bàn châu thổ sông Hồng gần kinh thành Thăng Long
làm trọng tâm với lực lượng đóng vai trò then chốt là các đội quân chính quy
người Kinh
Sau khi hoàn thành cuộc bắc phạt đánh phủ
đầu nước Tống và rút quân an toàn về nước, Lý Thường Kiệt – vị chỉ huy tối cao
của quân đội Đại Việt đã biết chắc thế nào quân Tống cũng sẽ tiến sang báo thù.
Ông đã cùng với triều đình và quân dân cả nước tích cực chuẩn bị để quyết chiến
với quân xâm lược. Trai tráng cả nước được tuyển mộ vào đội ngũ, ngày đêm tập
luyện chiến đấu.
Ở biên giới, thế phòng thủ của Đại Việt
chủ yếu dựa vào các lực lượng thổ binh của các tù trưởng. Tù trưởng Lưu Kỷ giữ
châu Quảng Nguyên. Phò mã Thân Cảnh Phúc ở châu Quang Lang đóng quân tại động
Giáp giữ ải Giáp Khẩu và ải Quyết Lý. Châu Môn có quân của các tù trưởng Hoàng
Kim Mãn, Sầm Khánh Tân, Nùng Thuận Linh án ngữ tuyến đường bộ từ Bình Gia đến
Thái Nguyên. Vi Thủ An giữ đường từ Tư Lăng đến Lạng Châu. Trong các đội quân
này mạnh nhất là quân của Lưu Kỷ và Thân Cảnh Phúc.
Quân của các tù trưởng châu động trên là
những lực lượng người dân tộc thiểu số Tày, Nùng. Họ là những chiến binh can đảm
và võ nghệ cao cường, lại thông thuộc địa thế, thạo chiến đấu trên những vùng
núi non. Đó là những lực lượng đáng gờm đối với bất kỳ đội quân nào. Tuy nhiên
có một yếu điểm là những sắc dân biên cương này không hoàn toàn trung thành với
Đại Việt. Họ là những xứ tự trị, đối với vương triều Lý về căn bản vẫn chỉ là một
liên minh lợi ích. Các đời vua triều Lý thường cố gắng chiêu dụ các tù trưởng bằng
tước vị, tiền bạc và hôn nhân để mong có được sự quy phục và đã mang lại nhiều
hiệu quả.
Sự đoàn kết như những người đồng chủng
đồng văn giữa người miền đồng bằng trung tâm và người miền thượng du về căn bản
vẫn khá lỏng lẻo. Chính vì vậy, khi bố trí một thế trận chống ngoại xâm, Lý Thường
Kiệt phải chọn địa bàn châu thổ sông Hồng gần kinh thành Thăng Long làm trọng
tâm với lực lượng đóng vai trò then chốt là các đội quân chính quy người Kinh sống
ở đồng bằng trung châu nước Đại Việt. Đó là những đạo quân đặc biệt trung
thành, có thể chiến đấu tới cùng trong mọi hoàn cảnh để bảo vệ đất nước.
Đặc biệt, vai trò của thủy quân là tối
quan trọng trong thế trận chống ngoại xâm. Có thể nói đa phần quân chính quy Đại
Việt là lính thủy đánh bộ hoặc thủy quân. Tướng Lý Kế Nguyên nắm giữ một đạo thủy
quân tinh nhuệ đóng tại biên thùy châu Vĩnh An để đề phòng quân Tống dùng thuyền
chở quân vượt biển hoặc phối hợp với bộ binh của tướng Quách Quỳ. Lý Kế Nguyên
phụ trách che chắn cho cả một vùng bờ biển phía đông bắc Đại Việt, với những
tuyến đường thủy yếu huyệt là vịnh Đông Kênh, cửa biển Bạch Đằng. Quân số đạo
thủy quân mà Lý Kế Nguyên chỉ huy ước chừng dưới 2 vạn quân.
Hai hoàng thân Hoằng Chân, Chiêu Văn nắm
giữ 2 vạn thủy quân với 400 chiến thuyền đóng tại Vạn Xuân. Từ vị trí này, chiến
thuyền Đại Việt có thể kiểm soát cả một hệ thống sông ngòi che chắn cho thành
Thăng Long từ phía bắc, bao gồm các con sông lớn là sông Lục Nam, sông Thương,
sông Đuống, sông Thái Bình, sông Bạch Đằng … đặc biệt là sông Cầu. Con sông Cầu
thời bấy giờ là một con sông lớn, là nơi mà các tuyến đường quan trọng từ bắc
xuống nam đều phải đi qua, với bến đò Như Nguyệt gần như là đường độc đạo để
cho một đội quân lớn có thể vượt sông. Vào thời kỳ này, bến đò này là một chốt
giao thông huyết mạch, cùng với vùng lân cận là điểm khả thi nhất, thậm chí gần
như là sự lựa chọn duy nhất cho quân Tống nếu muốn vượt sông Cầu đánh chiếm
Thăng Long.
Chính vì đây là yếu địa, Lý Thường Kiệt
đã cho xây dựng ở đây một chiến tuyến quy mô dài gần 30 km, cùng các điểm phụ
trợ nằm ở bờ nam. Chiến tuyến Như Nguyệt là một chuỗi những cụm chiến lũy được
làm bằng gỗ, tre, nứa được liên kết bằng vữa đất. Chiến lũy được đắp theo những
nơi được đánh giá là có thể vượt sông. Bên ngoài các đoạn chiến lũy, lớp lớp những
chông tre được cắm kín bờ sông chĩa mũi nhọn về phía bắc. Ngoài ra còn có những
hầm chông ngầm được chôn tạo thành những cái bẫy. Những nơi bụi rậm hay bờ dốc
cao thì không có chiến lũy, chỉ có quân mai phục đề phòng.
Quân Đại Việt đóng thành cụm quân lớn
ngay tại bến đò. Cùng với đó là một chuỗi liên hoàn các cụm quân dọc theo chiến
tuyến để canh chừng và liên lạc, hỗ trợ cho nhau. Có bốn cụm quân lớn dọc sông
Cầu là Như Nguyệt, Thị Cầu, Phấn Động, Vạn Xuân được gấp rút chuẩn bị sẵn sàng
chiến đấu. Quân phòng thủ trên bờ và thủy quân dưới sông từ căn cứ Vạn Xuân phối
hợp với nhau tạo thành chiến tuyến mang tính chất sống còn đối với Đại Việt. Tống
quân số cho chiến tuyến này chừng 6 vạn.
Trong đó, có 2 vạn thủy quân cùng 400 chiến
thuyền ở căn cứ Vạn Xuân, 4 vạn quân còn lại đóng thành nhiều cụm liên hoàn dọc
theo chiến tuyến . Các cỗ máy bắn đá cũng được bố trí ở những trọng điểm dọc bờ
sông. Ngay tại bờ nam bến Như Nguyệt còn có 300 chiến thuyền bày trận. Cấm quân
tinh nhuệ nhất dùng để bảo vệ kinh thành cũng được điều lên tham chiến. Ngay
sau lưng chiến tuyến chính là con đường tiến thẳng vào kinh thành Thăng Long.
Ở vùng lãnh thổ phía nam, Đại Việt còn chịu
sự đe dọa của Chiêm Thành và Chân Lạp. Hiện tại, sử liệu về việc chuẩn bị cho mặt
trận phía nam này hầu như không có gì. Chúng ta thấy rằng quân Đại Việt với những
đơn vị đông đảo nhất đã tập trung cho mặt trận phía bắc chống quân Tống. Nhưng
hẳn là vùng phía nam cũng phải có số quân phòng thủ nhất định để đề phòng liên
quân Chiêm Thành – Chân Lạp. Ngoài số lộ quân (quân địa phương thời Lý) phòng
giữ các châu, trấn phía nam, Đại Việt còn sử dụng tù binh Tống để sung làm lính
phòng thủ quân Chiêm. Số tù binh sung quân này có đến hàng ngàn, thậm chí gần vạn
người. Đây là quân số quan trọng bổ sung cho chiến trường phía nam, đóng giữ tại
trấn Nghệ An, Thanh Hóa. Tuy đội quân tù binh này ô hợp, nhưng Đại Việt hầu như
không có nhiều sự lựa chọn.
Về sau, diễn biến cuộc chiến sẽ cho chúng
ta thấy mặt trận phía nam chịu ảnh hưởng từ kết quả của mặt trận phía bắc. Xét
cho cùng hai nước Chiêm Thành, Chân Lạp tấn công Đại Việt cũng chỉ mang tính chất
theo đóm ăn tàn. Họ chờ đợi một thắng lợi của nước Tống để xâu xé Đại Việt chứ
chẳng dại gì dành phần khó nhọc về mình. Nhất là nước Chiêm Thành đã nhiều lần
nếm mùi thất bại trước Đại Việt nên càng thêm phần thận trọng. Có thể nói rằng,
nếu Đại Việt đánh bại được Tống thì hai nước này không đánh cũng tự rút. Bởi nếu
quân Đại Việt được rảnh tay chiến đấu trên lãnh thổ của mình thì cho dù hai nước
Chiêm Thành, Chân Lạp liên minh cũng không phải đối thủ.
Cuối năm 1076, khi quân Tống tiến đến
biên giới và bắt đầu những hoạt động quân sự đầu tiên, một thế trận liên hoàn
trên toàn lãnh thổ nước Đại Việt đã sẵn sàng chờ đón chúng.
Quốc
Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét