Chuyển đến nội dung chính
LAN MAN CON KIẾN
LAN MAN CON KIẾN
Mới vừa rồi, đọc đâu đó
bài viết của cô gái nọ mắt xanh mũi lõ, từ phương Tây đến sống và làm việc tại
Hà Nội, tên là Blossom. Sau một thời gian “nhất lân la, nhì trà trộn” với bà
con bản xứ, cô đã đúc kết sáu điều kỳ lạ tại Việt Nam. Thật ra không chỉ có
sáu, còn có nhiều rất nhiều điều kỳ cục khác mà cô chưa nhận ra tỷ như sự méo
mó tiếng Việt. Chẳng hạn, sự ra đời của từ “thu giá” nhằm thay thế cho “thu
phí” - vừa mới ló mặt ra đã bị thiên hạ ầm ầm phản ứng. Cuối cùng “mèo lại hoàn
mèo”.
Chẳng rõ, tự bao giờ,
xuất hiện từ mèo/ mèo mỡ được sử dụng nhằm chỉ tình nhân của người đàn ông?
“Anh có thương em thì mần giấy giao kèo/ Ngày sau mới chắc em là mèo của anh”.
Cô gái này, khôn ngoan, tỉnh táo, chín chắc cũng tựa như “Thương anh đâu quản
hiểm nghèo/ Ngặt vì một nỗi anh có mèo theo sau”. Sao lại con mèo, chứ không con gì khác? Một
khi có câu “sư tử Hà Đông” trông dáng vẻ bề ngoài hầm hố, dữ tợn thì “đối trọng”
lại phải là con vật hiền lành, nhỏ nhắn? Vì thế, thiên hạ chọn con mèo, do liên
tưởng đến hình dáng tựa như con hổ thu nhỏ chăng? Quái thật, cùng lông đen
nhưng phải gọi mèo mun, gà ô, chó mực…
Trở lại với ý kiến
Blossom, khi cô đã quan sát, nhận thấy tỏ tường: “Thực phẩm kỳ lạ: Người Việt nổi
tiếng với những món ăn lạ lùng, thường gây tranh cãi như thịt chó, thịt mèo, trứng
vịt lộn, rùa, chuột, thậm chí, tôi xin được nói, là cả nhím nữa. Rồi bạn sẽ thấy
mọi thứ, từ những con sâu vẫn còn ngọ nguậy tới đầu chó treo lủng lẳng tới những
loại côn trùng trườn bò trông sởn da gà; những con rắn còn sống bị rạch bụng giữa
phố để lấy máu, trái tim hẵn còn đập bị người ta thả vào cốc bia rồi nốc cạn một
hơi, tới những loài côn trùng, như dế được chiên lên làm đồ nhắm với bia, cùng
với sâu hoặc nhộng. Ấu trùng dừa (đuông dừa) được ăn khi sống và nó cứ quằn quại
trong miệng”.
Thật ra trong nghệ thuật
ẩm thực của năm châu bốn biển, khó có thể nói đâu là kỳ cục và không kỳ cục. Thời
trẻ còn trong quân ngũ, lúc sang Kampuchia, ban đầu anh em bộ đội nhà mình chê ỏng
chê eo mắm bò-hóc (prohôk) của xứ Chùa Tháp nhưng sau khi đã quen mùi lại mê
tít thò lò. Đọc Món lạ miền Nam của Vũ Bằng, y khoái được dịp thưởng thức món
thịt bò có tên gọi “bò kiến”. Nếu tra từ điển thì bí rị bà rì, đơn giản, “bò kiến”
ở đây là cách nói tắt của sự kết hợp giữa con bò và con kiến.
Đại khái, “Ấy là vì cái
bí quyết làm thịt bò kiến này không được chạm đến lửa: lửa nó làm khô mất huyết,
nhưng phải dùng một thứ khác để làm cho thịt tái đi. Đó là giống kiến vàng. Thịt
lựa chỗ nào ngon, nhất là cái thăn hay bắp vế, đem treo lên chỗ mát rồi giăng
dây cho kiến vàng bu lại đen kịt như thể ong quân vây lấy ong chúa không để cho
tổ hở một chỗ nào. Để như thế độ vài tiếng đồng hồ - muốn để từ sáng đến trưa
càng tốt - miếng thịt vẫn cứ tươi như thường, không teo, trái lại vẫn cứ mịn
màng thêm lên, đậm đà hơn lên và ngọt hơn lên”. Miếng thịt mềm đi, nói một cách
nôm na là nhờ… nước đái kiến!”. Nghe ra ngộ nghĩnh lắm. Nào đã mấy ai thấy được
nước đái kiến? Thành ngữ có câu: “Dai như bò đái” tức nó “xả” tưởng chừng liên
tu bất tận, con kiến sức mấy “có cửa”. Vì lẽ đó, nhân vật trong tạp bút trên
bèn hỏi một câu thành thật: “Nước đái nó ra sao?”.
Câu trả lời rằng: “Nước
đái kiến vào mắt mình, nó “the thé” kỳ lắm, không tả được. Thoạt đầu, tôi tưởng
đến mù, nhưng chỉ độ mươi năm phút thì hết, nhưng kiến nó đã vớ được mình thì
“bám riết” không chịu rời ra. Tôi đành phải nhảy từ trên cây xuống dưới sông để
họa may kiến có buông tha chăng: vô ích. Sau mãi có người bảo mới biết là giống
kiến vàng sợ nhất tro, muốn đuổi chúng đi chỗ khác, cứ lấy tro mà rắc lên đường
chúng đi, chỉ một lát là biến hết - có phần còn tốt hơn cả thuốc xịt côn trùng
Fly Tox, My Tox nữa! Phải rồi! Đuổi chúng đi chớ đừng có giết kiến làm gì, tội
nghiệp! Là vì cái giống kiến vàng này quí lắm, có nhiều khi phải đi mua từng giỏ
để đem về nuôi trên các cây có trái”.
Câu cuối ở đoạn văn của
Vũ Bằng, có ai ngập ngừng, dừng lại không?
Với y, ắt có. Không
sinh sống nhiều năm ở nông thôn, nhất là tại miền Nam nên không thể biết thêm lợi
ích của “giống kiến vàng này quí lắm, có nhiều khi phải đi mua từng giỏ để đem
về”. Rồi tại sao lại đi mua “đem về nuôi trên các cây có trái”? Trả lời chi tiết
này, cách dễ chịu nhất vẫn tìm hỏi các ông kỹ sư canh nông. Nhưng thôi, trước mắt,
ta hãy khảo sát từ… văn chương cho nó hợp với mạch chuyện đang ngon trớn. Chẳng
hạn, thử đọc lại truyện ngắn Trộm của lạ của nhà văn Bình Nguyên Lộc.
Trước hết, phải dài
dòng một chút, rằng, trước đây, ở miền Nam có tạp chí Hương quê dành tặng cho
bà con nông dân, không bán. Hai nhà văn Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam thay phiên
nhau viết các truyện ngắn theo chủ đề “hương đồng gió nội”. Lúc NXB Trẻ mua bản
quyền toàn bộ sáng tác của Sơn Nam, chính y đã tìm từ Hương quê các truyện ngắn
của ông đã in để có được sự nối dài của Hương rừng Cà Mau. Và nay, tới phiên
Bình Nguyên Lộc với tập truyện ngắn cùng tên Hương quê (NXB Trẻ - 2018) cũng chọn
từ tạp chí trên. Người cung cấp nguồn tài liệu lần này là TS Nguyễn Văn Đông -
giảng viên Trường Đại học Thủ Dầu Một.
Truyện ngắn Trộm của lạ,
viết về cách trị loại kiến hôi đã khiến “cả cam lẫn quýt đều chua, nếu không
èo, không chai cứng, không khô rom”. Trị bằng cách nào? Hãy nghe nhân viên sở
Canh nông trả lời: “Nếu vậy thì rất dễ cứu vãn cây trái của quý ông. Đây là một
phát minh của người Việt Nam ta của cụ Trương Vĩnh Ký”. Chi tiết này, không rõ
Bình Nguyên Lộc đọc từ đâu, khó kiểm chứng, nhưng trong thực tế: “Thả kiến vàng
lên những cây có ổ kiến hôi. Hai loài kiến này thù nhau “bất cộng đái thiên” và
chúng sẽ giết nhau, và rốt cuộc kiến vàng thắng. Chúng nó thắng rồi chiếm luôn
những cây đó, kiến hôi sẽ không bao giờ dám trở lại nữa hết. Ông không tin, cứ
làm thử thì biết”. Quả nhiên mọi việc diễn ra trúng chóc, đúng y chang.
A, ai nghĩ ra cách sử dụng
kiến vàng để “sáng tạo” ra món “bò kiến” số dzách ở miền Nam nước Việt? Chỉ có
thể đệ tử của Lưu Linh? Hay do các bà nội trợ luôn đau đáu nghĩ ra cách cải thiện
thức ăn, nâng cấp chế biến cho chồng con ngon miệng? Cũng có thể do kinh nghiệm
tình cờ chăng? Vừa rồi đi về Bến Tre, gần Bãi Ngao, được chủ nhà đãi món khô cá
đuối chấm với nước me chua dằm. Lúc trà dư tửu hậu, chủ bật mí: “Ngon quá phải
không? Miếng khô mềm lừ, không cứng, chỉ sừng sực mát cả chan6t răng, thơm cả
miệng. Có biết bí quyết là gì không?”. Y lắc đầu. Thì ra: “Dễ lắm, cá nướng
xong, ra vườn hái tàu lá chuối xanh, gói lại”. Đơn giản mà hiệu quả. Trong khi
đó, dân thành phố phải dùng búa/ chày nện mãi mà miếng khô cá có mềm ra đâu.
Mà này, trong món bò kiến,
con kiến vàng này đã đi vào ca dao huê tình, lúc chàng ỡm ờ: “Ước gì anh hóa được
con kiến vàng/ Bò ngang quai nón hun nàng cái chơi; nàng lúng liếng: “Ước gì em
hóa được con kiến hôi/ Bò ngang quai nón đái trôi kiến vàng”. Căn cứ vào cách
trị kiến vừa nêu trên, trong trường hợp éo le này, cô nàng thua là cái chắc.
Thích nhất vẫn là bài vè về các loại kiến, đọc nghe du dương, vui tai, ngộ
nghĩnh: “Kiến lửa tập đoàn/ kiến vàng ở ổ/ Cao đầu lớn cổ/ thiệt là kiến hùm/ Cắn
chúng la um:/ kiến kim, kiến nhọt/ Nhỏ như con mọt/ thiệt là kiến hôi/ Động trời
nó sôi:/ kiến cánh, kiến lửa/ Bò ngang, bò ngửa:/ kiến riện đơn chai/ Bò dông,
bò dài/ bò qua, bò lại/ Kiến đực nói phải/ kiến cái làm khôn/ Rủ nhau lên cồn/
xoi hang lạch cạch/ Thuở xưa, trong sách/ Bàn Cổ sở phân/ Sanh ra chúng dân/ đỏ
đen như kiến…”.
Có ai ăn kiến không? Chắc
không. Nhưng chăn kiến thì có. Bằng chứng là NXB Trẻ đã ấn hành tập truyện ngắn
Người chăn kiến của Bùi Ngọc Tấn. Tìm đọc lại, phải mua lấy sách. Chi bằng đọc
từ trang web của Hội Nhà văn TP.HCM đã post, trong đó, có đoạn: “Hôm ấy đi làm
vệ sinh về, tay B trưởng bắt ra 4 con kiến đỏ bé xíu đựng trong cái vỏ bao thuốc
lá. Hắn cầm mẩu gạch non khoanh 4 vòng tròn xuống nền xi măng. 12 anh tù được hắn
chỉ định chia thành 3 ca chăn 4 con kiến nhỏ. Ông M không ngờ mình lại mê chăn
kiến đến như thế. Công việc kì dị ngày càng hấp dẫn ông. Nó làm ông khao khát đến
bồn chồn. Cho dù đó là khổ ải. Phải giữ kiến luôn ở trong vòng tròn. Trong ấy
có bánh bích qui, có đường, có thịt, kiến ăn nhưng không chịu ngủ, kiến vẫn bò
tìm tổ. Phải luôn tay chặn kiến lại và không được làm sứt một cái chân của kiến.
Chính những điều ấy khiến ông thèm khát. Nó sẽ giúp ông quên thời gian, quên những
thiên thu tại ngoại”. Người chăn kiến còn là tiếng lóng nhằm chỉ kẻ gỡ lịch/ nằm
nhà pha/ nằm nhà đá/ nằm hộp/ xộ khám…
Viết đến đây lại nhớ mẩu
chuyện nhỏ, bấy giờ nhà thơ Nguyễn Thái Dương đang làm Thư ký tòa soạn của báo
Mực Tìm. Ngày kia, đọc các bản thảo để chọn in, bắt gặp bài thơ có câu: “Ngồi
buồn bắt giết kiến chơi”, anh rùng mình. Và từ đó, anh không còn dám quan hệ với
tác giả câu thơ đó, dù trước đây đã là bè bạn. Chắc chắn y cũng vậy thôi. Hành
động đó là biểu hiện của cái ác. Vậy mà bây giờ lại phổ biến “Game giết kiến -
Trò chơi giết kiến online miễn phí cho Andorid, Iphone”. Thử hỏi, có phải đó là
mầm mống tạo ra cái ác? Còn nhớ, thuở bé thường mê mẩn đọc tạp chí Phổ thông do
nhà thơ Nguyễn Vỹ chủ biên, có lần đọc bài viết bàn về thơ Haiku. Đọc lâu quá rồi,
chỉ nhớ đại ý, có nhà thơ cóc keng nọ làm bài thơ: “Con chuồn chuồn/ Ngắt hai
cánh/ Trái ớt”. Anh ta thích lắm, đọc oang oang đầu làng cuối xóm, thiên hạ khen rùm trời, duy chỉ có
vị thiền sư nghiêm mặt bảo: “Đó là cái ác”; và sửa lại: “Trái ớt/ Chắp hai
cánh/ Con chuồn chuồn”. Ôi chao, tâm thế nào thì thơ thế ấy.
Cái tâm của y ra làm
sao? Không rõ. Chỉ có điều y không còn
ăn thịt chó nữa. Chỉ ăn thời đi bộ đội ở rừng, xa tít bên quê hương Chùa Tháp.
Tuy không còn ăn nhưng vẫn chép lại bài vè này, ít ra cũng cho thấy cách chế biến
trong Nam khác hẵn ngoài Bắc. “Nghe vẻ nghe ve/ Nghe vè thịt chó/ Thằng nào chịu
khó/ Bắt nước cạo lông/ Thằng nào ở không/ Rang mè rang đậu/ Anh nào chịu khó/
Thì đi mua tương/ Cái việc tầm thường/ Ai ai cũng biết/ Muốn cho tươm tất/ Đậu
phụng, đậu nành/ Củ sả, củ hành/ Mua ba tiền bún/ Một tiền rau húng/ Một trái dừa
khô/ Bỏ tiền hùn vô/ Mua ba chai rượu/ Anh nào háo tửu/ Thì hùn thêm tiền/ Xách
rổ đi liền/ Đi mau tới chợ/ Đừng có sớ rớ/ Gấp gấp mà về”.
Rõ ràng, không hề có mắm
tôm, lá mơ, củ riềng… Chỉ mấy câu vần vè, nhưng ta cũng thấy được cái “không
khí” rất ồn ào, tấp nập, nhộn nhịp khi chuẩn bị… nhậu! Đã ăn thì phải uống. Dám
quả quyết, trong các thức uống nhằm đạt đến thú vui tao nhã (lẫn thô tục) ở đời,
chỉ có rượu được… đi vào thơ văn, nhạc họa, ca dao, hò vè với tần số cao nhất.
Nhưng rồi nếu chọn lấy một, y chỉ chọn lấy bài này: “Uống một ly nâm nhi tình bạn/
Uống hai ly giải hạn cơn sầu/ Uống ba ly mũi chảy đầy râu/Uống bốn ly ngồi đâu
nói đó/ Uống năm ly cho chó ăn chè/ Uống sáu ly ai nói nấy nghe/ Uống bảy ly
làm xe lội nước/ Uống tám ly chân bước, chân quỳ/Uống chín ly còn gì mà kể/ Uống
mười ly khiêng để xuống xuồng!”.
Khiêng một kẻ say quắc
cần câu xuống xuồng, không khéo hắn ta té nhào xuống sông, kênh, rạch thì khốn.
Vậy lúc ấy, phải làm sao giải rượu cấp kỳ cho kẻ đó? Dễ ợt, cứ việc kề tai hắn
ta, nói khẽ: “Này, hiện nay, trong tiếng Việt đã xuất hiện từ “thu giá” - nhằm
thay thế cho “thu phí”, nhớ chửa?”. Ngay lập tức, hắn ta sẽ bật người dậy, tỉnh
táo, tỉnh queo như chưa hề uống giọt nào rồi kinh ngạc thốt lên một cách bình tỉnh
bằng ngữ điệu cực kỳ nghiêm trọng: “Thế à? Thế à?”.
Thì đúng là thế.
LÊ MINH QUỐC
Nhận xét
Đăng nhận xét