Bài 30-SAU 1975, CẢ NƯỚC VIỆT NAM ĐÓI NẶNG
Bài 30
SAU 1975, CẢ NƯỚC VIỆT NAM
ĐÓI NẶNG
Người tỵ nạn VNCH bỏ chạy khỏi Đà Nẵng - ảnh
tư liệu
Tình hình kinh tế VNCH vào
cuối tháng 3, đầu tháng 4 năm 1975 bị xáo trộn nghiêm trọng vì chiến sự.
Tính đến 8/04, VNCH đã mất
toàn bộ Quân khu I, II và một phần Quân khu III, chỉ còn kiểm soát vùng bắc
Sài Gòn và Quân khu IV, tức đồng bằng Mekong.
Chính quyền của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đột nhiên phải đón hàng triệu người tỵ nạn bỏ chạy về phía
Nam sau khi Huế, Đà Nẵng và các đô thị Cao nguyên và vùng duyên hải rơi vào tay
lực lượng miền Bắc.
Chỉ con số người tỵ nạn đăng
ký vào các trại cứu trợ thuộc Quân khu III và IV, ở Bình Dương, Biên Hòa, Bình
Tuy, Phước Tuy, Sài Gòn, Tây Ninh, Vũng Tàu, Châu Đốc, Kiên Giang, Kiến Tường,
Phú Quốc, Vĩnh Bình và Vĩnh Long, là 356 nghìn.
Bên cạnh đó là hàng trăm
nghìn người bị mất nhà cửa trong ngay hai vùng chiến thuật 3 và 4 do các cuộc
tấn công của đối phương.
Nhưng kinh tế của phần còn lại
mà VNCH kiểm soát vẫn khá vững, ít ra là còn thực phẩm, theo một báo cáo của
CIA 'The
Economic Situation in South Vietnam' - March 1975' được giải mật tháng
1/2005.
Tất nhiên, có những bất ổn về
tiền tệ: giá vàng và đô la Mỹ tăng mạnh vì lo ngại phải di tản, và Sài Gòn đã
mất toàn bộ khu vực kinh tế Cao nguyên, nguồn xuất khẩu gỗ, lâm sản và các tỉnh
Bắc Trung Bộ, nhưng vụ mùa 1974-75 có thu hoạch tốt, và VNCH dư gạo để nuôi
quân, nuôi dân, gồm cả người tỵ nạn.
"Sài Gòn vẫn kiểm soát
vựa lúa ở đồng bằng sông Mekong, cung cấp gạo cho số dân còn do VNCH kiểm soát,
gồm cả người tỵ nạn. Vụ mùa 1974-75 lại bội thu, và các thuyền chở lúa gạo,
rau trái tiếp tục cập vào Sài Gòn, không hề bị phe cộng sản ngăn cản. Ngành
đánh cá của Nam Việt Nam cung ứng cho Sài Gòn và để xuất khẩu, cũng còn nguyên
vẹn."
Dù nguồn rau xanh đã mất vì
không còn Đà Lạt, thịt và cá từ miền Tây vẫn cung cấp đều cho Sài Gòn và các đô
thị khác.
Tuy nhiên, phúc trình này đã
cảnh báo rằng "nếu phe cộng sản chặn bắt các chuyến vận tải vào Sài
Gòn, hoặc chính phủ phải rút quân để bảo vệ thủ đô, thì tình hình có thể
không còn tốt như thế".
Sau ngày 30/04/1975
Bức tranh kinh tế của nước
Việt Nam thống nhất một hai năm sau khi chiến sự kết thúc lại hoàn toàn khác:
cả hai miền thiếu lương thực trầm trọng.
Một phúc trình khác của CIA
vào tháng 10/1978 nói có ba lý do cho việc thiếu gạo này.
1.
Viện trợ, gồm cả gạo của Bắc Kinh cho Hà
Nội, để bù vào con số thiếu kinh niên là 800 nghìn tới 1 triệu tấn/năm, bị giảm
từ 1974 và cắt hẳn năm 1978.
2.
Thu hoạch lúa của cả hai miền
Nam và Bắc đều giảm, vì lý do khách quan, như thiên tai (lụt to ở đồng bằng
sông Cửu Long), và sâu bệnh.
3.
Các chính sách sai lầm
nghiêm trọng của chính phủ với nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Nếu lấy năm 1974, khi hai miền
chưa ghép làm một, là điểm quy chiếu, thì các vấn đề lương thực của miền Bắc
(VNDCCH cũ) là không đổi, tức là luôn thiếu.
Sản lượng lương thực, trong
đó phần lớn là lúa gạo (chừng 5 triệu tấn/năm), cũng đã luôn thấp hơn miền Nam
(VNCH cũ), và trong suốt một thập niên chiến tranh, Hà Nội phải nhập, hoặc
nhận viện trợ gạo, lúa mì từ các đồng minh XHCN.
Sau ngày 30/04/1975, Tướng Trần Văn Trà
(giữa, đeo kiếng) nắm chức Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định của
chính phủ Cách mạng Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Hai miền thống nhất chính thức
vào tháng 7/1976.
Vựa lúa VNCH trong khi đó
vào năm 1974 đã đem về 7,1 triệu tấn, một con số kỷ lục.
Ngoài diện tích điền sản lớn
hơn miền Bắc, còn có ba lý do để lúa ở miền Nam đạt năng suất tốt: dùng giống
cao sản, phân hóa học, và có máy móc hiện đại hơn.
Như thế, sản lượng lúa năm
1974 của cả nước là 12,1 triệu tấn (7,1 của miền Nam, 5 triệu của miền Bắc).
Sau 30/04/1975, sản xuất lúa
gạo bắt đầu tụt dốc ở miền Nam.
Giới trẻ với niềm vui ngày 2/09/1976 trên
đường phố Sài Gòn đã được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh
Việc cắt đứt quan hệ với
các nước Phương Tây và tư bản châu Á khiến nguồn phân hóa học không còn, và
ngay lập tức năng suất lúa gạo bị giảm.
Xáo trộn về thị trường vì
quản lý nặng tay cũng khiến chuỗi cung ứng lúa gạo cho đô thị bị ngưng trệ,
vì chừng 160 nghìn người Hoa ở Chợ Lớn tìm cách ra đi.
Việc ngăn sông cấm chợ và lời
đe dọa tịch thu ruộng đất, trang trại, vườn rau chính quyền mới đưa ra khiến
nông dân mất hứng thú sản xuất.
Chính sách 'Kinh tế mới' đem
chừng 1,5 triệu người vào các vùng xa đô thị để khai phá, nhằm tăng đất canh
tác, có đem lại kết quả về con số.
Chừng 400 nghìn hectare đất
nông nghiệp được mở ra, nhưng sản xuất không tiến được vì người ta bỏ trốn về
thành phố, vì thiếu thiết bị sản xuất, và phân bón.
Tinh thần làm việc cũng
không cao, vì khu kinh tế mới, như lời một nhà báo nước ngoài đến thăm,
"không khác gì trại tù Siberia".
Trận lụt năm 1978 cũng khiến
nền kinh tế thêm điêu đứng, sâu rầy cũng phá hoại hoa màu, nhưng yếu tố con người
vẫn là chính.
Năm 1977, cả nước chỉ thu hoạch
có 11,2 triệu tấn lúa, thấp hơn kế hoạch nhà nước đề ra 1,8 triệu tấn, và kém
chỉ tiêu năm 1976 chừng 800 nghìn tấn.
Đó là chưa kể miền Bắc vẫn
tiếp tục cần tới 1 triệu tấn gạo từ viện trợ bên ngoài mà nay không còn.
Vì thế, không lạ là từ sau
1975, nhà nước tung ra phong trào ăn độn, với bo bo, khoai mì (sắn), và khoai
tây được trồng đại trà bù vào cơm ăn hàng ngày.
Trong việc này, Việt Nam
có thành tích đáng kể, theo báo cáo của CIA.
"Các loại ngũ cốc như củ
mì, ngô và khoai tây đã tăng từ 900 nghìn tấn năm 1975, lên 1,2 triệu tấn năm
1976 và 1,8 triệu vào năm 1977."
Một chỉ số 'có tăng' khác
là vào hai năm 1976 và 1977, số đầu gia súc, nhất là heo, bị nông dân giết mổ
nhiều hơn...vì không muốn bị nhà nước tịch thu.
Hệ quả của việc này là sau
đó, đàn gia súc miền Nam không phục hồi được, giống như tình hình chung của nền
nông nghiệp.
Căng thẳng với Campuchia khiến
chương trình Kinh tế mới và việc khai thác nông nghiệp các vùng xa đô thị bị
ngưng trệ, rồi chết hẳn.
"Các đơn vị quân đội
chủ lực vốn thường được điều vào làm phần một của công tác xây dựng khu Kinh tế
mới như dọn mặt bằng, xây mương máng, nay phải chuyển ra biên giới đối mặt với
các hoạt động thù địch. Những vụ chạm súng sau đó đã phá nhiều khu kinh tế mới
ở Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang, buộc chính quyền phải giảm tốc
độ của chương trình đưa người vào các vùng thưa dân giáp biên với
Campuchia..."
Chỉ tiêu 'tự lực về lương thực'
cả nước cho năm 1980 đã hoàn toàn tuột khỏi tầm tay của nhà nước.
Nhưng các vấn đề của nông
nghiệp chưa có hướng giải quyết thì bộ máy đã bắt đầu chuyển tầm ngắm vào các
khu vực khác của nền kinh tế.
Đó là cải tạo công thương' ở
đô thị từ tháng 3/1978, áp dụng chế độ tem phiếu ngay cả ở TPHCM và thử
nghiệm 'hợp tác hóa' ở nông thôn.
Nhưng đó là cả một câu
chuyện khác và vào thời điểm này, người miền Nam, không chỉ còn là người Hoa,
đã bắt đầu tìm cách di tản.
Công dân VN cao niên từ TPHCM đáp xuống
sân bay TAA Mascot, Úc sau chuyến bay từ Darwin vào một ngày tháng 6/1977. Làn
sóng người Việt Nam bỏ đi bắt đầu sau 1975, đa số vượt biên bằng thuyền.
BBC
Nhận xét
Đăng nhận xét