Kỳ 3 - TRƯỚC KHI PHẠT TỐNG LÝ THƯỜNG KIỆT NAM CHINH ĐẠI PHÁ CHIÊM THÀNH
Kỳ 3
------
TRƯỚC KHI PHẠT TỐNG
LÝ THƯỜNG KIỆT NAM CHINH
ĐẠI PHÁ CHIÊM THÀNH
Trong bối cảnh nước Tống đang ráo riết
chuẩn bị xâm lược từ phía bắc, thì quân Chiêm Thành lại đánh phá dữ dội phía
nam. Nước Đại Việt lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch...
Chiêm Thành là một đất nước của người
Chăm nằm ở dải đất miền Trung Việt Nam ngày nay, từng là một nước có nền văn
minh phát triển cao. Dân nước này sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp và nghề biển.
Họ là những nông dân, ngư dân, thương nhân và cướp biển. Quan hệ giữa hai nước
Chiêm – Việt vốn từ lâu rất phức tạp. Chiêm Thành là một nước có truyền thống đối
ngoại rất hiếu chiến, đối với lãnh thổ người Việt họ vẫn luôn nhòm ngó xâm lấn
để cướp bóc và bành trướng. Nhưng kể từ thời vua Lê Hoàn trở đi, thế lực người
Việt đã vươn lên mạnh mẽ lấn lướt người Chăm. Chiêm Thành khi thế yếu thì chấp
nhận triều cống Đại Cồ Việt hay về sau là Đại Việt, nhưng hễ mạnh lên lại thường
tấn công quấy nhiễu.
Người Việt cũng tỏ ra không hề
khoan nhượng. Chỉ với thời gian tái lập quốc gia không lâu, từ thế kỷ thứ
10 đến nửa cuối thế kỷ 11, người Việt đã nhiều lần đánh bại và tàn phá các kinh
đô của người Chăm, bắt hoặc giết các vua Chăm. Vua Lê Hoàn từng giết vua
Paramesvaravarman I (Bề Mi Thuế), tàn phá kinh đô Indrapura (Đồng Dương)
vào năm 982.
Các đời vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý
Thánh Tông đều có chiến tranh với Chiêm Thành và thường là quân Việt giành phần
thắng. Năm 1020 tướng Chiêm Thành là Bố Lệnh mang quân tấn công Đại Việt, vua
Lý Thái Tổ sai thái tử Lý Phật Mã và tướng Đào Thạc Phụ đem quân chống lại.
Quân Chiêm Thành bị đánh bại và chết đến quá nửa, tướng Bố Lệnh bị giết. Năm
1044 người Chăm bại trận trước cuộc tấn công của quân đội vua Lý Thái Tông. Vua
Chiêm Thành là Jaya Sinhavarman II (Sạ Đẩu) tử trận cùng với 3 vạn quân, 5.000
người Chiêm Thành bị bắt, Quân Việt thừa thế chém giết dân Chiêm Thành không kể
xiết.
Tình cảnh đến mức vua Lý Thái Tông thấy
thương xót mà hạ lệnh: "Kẻ nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ giết
không tha". Kinh đô mới của người Chiêm là Vjiaya (Phật Thệ) cũng bị chiếm
đóng một thời gian cho đến khi quân Việt chủ động rút lui. Đến năm 1069, vua Lý
Thánh Tông lại đánh chiếm được kinh đô Vjiaya, bắt sống vua Rudravarman III (Chế
Củ) cùng toàn bộ hoàng gia và nhiều tù binh, buộc vị vua này phải cắt đất ba
châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý (thuộc Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay) để chuộc
mạng. Ba châu này vốn là đất cũ của nước Văn Lang thưở xưa, đã trở thành lãnh
thổ của Chiêm Thành trong thời Bắc thuộc.
Các cuộc chiến Việt – Chiêm được sử sách
người Việt ghi chép đều nói nguyên nhân do phía Chiêm Thành khơi màu trước bằng
những vụ cướp phá biên giới. Có thể hiểu điều này, vốn nước Chiêm Thành thường
có tập quán cướp biển, bắt người để buôn bán nô lệ. Lại thêm nước Chiêm Thành
đánh nhau với người Việt thường bị thua nên hễ thế nước mạnh lên là lập tức tổ
chức đánh cướp người Việt hòng báo thù.
Kể từ lúc vua Rudravarman III cắt đất cho
Đại Việt để chuộc thân, ông đã mất uy tín để lãnh đạo đất nước. Các sứ quân nổi
lên cát cứ khắp nước Chiêm Thành. Vua Rudravarman III bị xua đuổi và phải lưu
vong sang Đại Việt. Vào năm 1074, một hoàng thân xứ Panduranga nước Chiêm Thành
tên là Thăn lên ngôi vua, lấy hiệu là Harivarman IV, chấm dứt thời kỳ loạn lạc.
Harivarman IV là người có xuất thân đặc biệt, với cha là người của dòng tộc
Cau, mẹ lại là người dòng tộc Dừa. Đây là hai dòng quý tộc lớn nhất của nước
Chiêm Thành vẫn thường hay cạnh tranh với nhau.
Vì có xuất thân như vậy, cùng với tài
năng của mình mà Harivarman IV đã thu phục được các quý tộc, đoàn kết dân chúng
Chiêm Thành. Chỉ trong một thời gian ngắn (1074 – 1075), nước Chiêm Thành đã
khôi phục lại sức mạnh của mình. Kinh đô Vjiaya và các đền đài bị tàn phá trong
các cuộc chiến tranh được sửa sang lại, nền kinh tế Chiêm Thành được khôi phục
dưới sự cai trị của vị vua mới. Vua Harivarman IV đã chủ động kết thân với nước
Tống, ông gởi cống phẩm, xin mở rộng buôn bán với Tống và được nước Tống chào
đón nhiệt tình. Người Chiêm Thành nhờ đó mà có được nguồn nhập khẩu lương thực
mới và nguồn ngựa chiến.
Vua Harivarman IV nuôi chí báo thù Đại Việt.
Có được đồng minh và đối tác thương mại mới, trong năm 1075 Chiêm Thành lập tức
cắt đứt quan hệ với Đại Việt, ngưng triều cống, tung quân đánh phá ba châu Ma
Linh, Bố Chính, Địa Lý mà vua Rudravarman III đã chính thức cắt nhượng cho Đại
Việt năm 1069. Trong bối cảnh nước Tống đang ráo riết chuẩn bị xâm lược từ phía
bắc, thì quân Chiêm Thành lại đánh phá dữ dội phía nam. Nước Đại Việt lâm vào
thế lưỡng đầu thọ địch.
Mùa thu năm 1075, Thái úy Lý Thường Kiệt
đã mang đại quân vào nam để đánh Chiêm Thành. Phía Chiêm Thành biết quân Đại Việt
đông, thiện chiến và trang bị tốt nên chủ động tránh những trận giao chiến lớn.
Quân Đại Việt đã đẩy lui được quân Chiêm Thành ra khỏi biên giới nhưng không
gây được thiệt hại đáng kể cho quân Chiêm. Lý Thường Kiệt không dám đưa quân tiến
sâu và đất Chiêm Thành như những lần viễn chinh trước của người Việt, vì ông hiểu
rằng có một kẻ thù nguy hiểm hơn rất nhiều đang rình rập ở phía bắc. Một bài
toán khó được đặt ra với vị Thái úy nước Đại Việt.
Trước tình hình đó, Lý Thường Kiệt cho tổ
chức lại bộ máy chính quyền vốn còn sơ sài ở các châu mới sáp nhập, đổi tên
châu Ma Linh thành Minh Linh, châu Địa Lý đổi thành châu Lâm Bình. Ông sai người
vẽ lại bản đồ chi tiết ba châu Minh Linh, Bố Chính, Lâm Bình. Các dân chúng
dũng cảm được chiêu mộ đến để khai khẩn đất đai. Vốn ngay từ thế kỷ X, cư dân
người Việt và người Chăm đã chung sống với nhau trên vùng Ma Linh, Bố Chính, Địa
Lý nhưng mật độ vẫn còn thưa thớt.
Nay với việc tổ chức di dân quy mô lớn,
Lý Thường Kiệt đã khiến số dân người Việt trở nên áp đảo so với người Chăm và
làm cho mật độ dân cư vùng này dày hơn, tạo điều kiện cho việc cai trị và phòng
thủ lâu dài của chính quyền Đại Việt. Ngoài những người dân nghèo tham gia vào
cuộc khai khẩn vùng lãnh thổ mới còn có các thành phần tù tội bị lưu đày, các
binh lính trá hình. Mọi việc được gấp rút sắp xếp đặt xong trong một quãng thời
gian ngắn, ngay trong cuối thu năm 1075 Lý Thường Kiệt đem đại quân về bắc để
chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu mới, sau khi để lại một phần quân lực đồn trú
ở biên thùy phía nam.
Mối nguy Chiêm Thành được giải tỏa ít nhiều
đối với Đại Việt. Nhưng với binh lực vẫn còn gần như nguyên vẹn và ý chí báo
thù, đội quân của vua Harivarman IV nước Chiêm Thành vẫn như mũi dao hiểm chực
chờ đâm sau lưng nước Đại Việt.
Quốc
Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét