Tại sao Việt
Nam đệ trình thêm hồ sơ thềm lục địa mở rộng ở Biển Đông?
Bản đồ vùng
thềm lục địa mở rộng do các nước Việt Nam, Philippines, Malaysia đệ trình. Nhà
nghiên cứu Phan Văn Song vẽ minh họa dựa trên Google Map và hồ sơ đệ trình của
các nước nêu trên. (Ảnh minh họa)
Ngày
17/7/2024, Việt Nam đã đệ trình lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa Liên Hiệp quốc
yêu sách của mình về thềm lục địa mở rộng đối với khu vực giữa Biển Đông. Yêu
sách này được đưa ra căn cứ vào Khoản 8, Điều 76 của Công ước Liên hợp quốc về
Luật biển (UNCLOS), quy định về giới hạn của thềm lục địa mở rộng, vượt quá 200
hải lý tính từ đường cơ sở. Điều đáng chú ý là Việt Nam đã có đệ trình yêu sách
thềm lục địa mở rộng vào năm 2009. Tại sao Việt Nam cần đệ trình một hồ sơ mới ở
thời điểm này?
Tiếp nối hồ
sơ 2009
Theo nhà
nghiên cứu Phạm Ngọc Minh Trang ở Quỹ Max Planck vì hòa bình quốc tế và pháp
quyền, Đức, cả ba đệ trình đều đề cập đến các phần khác nhau của thềm lục địa hợp
pháp mà Việt Nam tuyên bố bằng cách áp dụng các biện pháp pháp lý khác nhau
theo UNCLOS. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt ở Tp. HCM cho rằng cần lưu ý trang bìa hồ
sơ của Việt Nam cũng ghi thời gian là năm 2009. Điều đó có nghĩa là Việt Nam
coi hồ sơ 2024 là sự kéo dài hồ sơ 2009. Có thể nói, hồ sơ năm 2024 là để nói
rõ hơn hồ sơ đã gửi trước đó.
Tháng 5/
2009, Việt Nam nộp hai hồ sơ. Một là hồ sơ riêng, một là hồ sơ chung với
Malaysia. Trao đổi với RFA, nhà nghiên cứu Phan Văn Song, một cộng tác viên của
Quỹ Nghiên cứu Biển Đông, cho rằng trước hết, cần lưu ý rằng trong hai hồ sơ nộp
tháng 5/2009 thì hồ sơ riêng của Việt Nam liên quan đến một phần thềm lục địa mở
rộng của khu vực phía Bắc biển Đông (kí hiệu là VNM-N), còn hồ sơ nộp chung với
Malaysia liên quan khu vực phía Nam, cụ thể là khu vực kí hiệu là "Defined
Area" (“khu vực minh định”). Trong bản đồ, khu vực này có hình đa giác
cong, được định vị với kí hiệu CDEQF.
Nhà nghiên
cứu Phan Văn Song chỉ ra là hồ sơ tháng 7 năm 2024 của Việt Nam liên quan đến
khu vực Giữa biển Đông (được kí hiệu là VNM-C). Tuy nhiên các ranh giới của khu
vực Giữa biển Đông này cũng đã được xác định trong hồ sơ nộp chung với
Malaysia. Đặc biệt, ranh giới phía Bắc của khu vực này đã được điều chỉnh chút
ít so hồ sơ trước. Cụ thể là dù vẫn được xác định bằng 78 điểm nhưng toạ độ các
điểm lần này có sai khác toạ độ trước đây khoảng vài 1/10 000 của độ (khó thể
nhận ra sự khác biệt với các bản đồ thông dụng). Như vậy, vẫn còn một phần của
khu vực phía Bắc biển Đông, nằm gần quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam chưa nộp hồ sơ.
Theo nhà nghiên cứu Phan Văn Song, điều đó có thể là do có nhiều rắc rối trong
tranh chấp với Trung Quốc cho vùng chồng lấn.
Tại sao Việt
Nam đệ trình vào thời điểm tháng 7 năm 2024?
Đệ trình của
Việt Nam được gửi cho Liên Hiệp quốc trong bối cảnh cách đây hơn một tháng, vào
ngày vào ngày 14/6, Philippines đã đệ trình Uỷ ban ranh giới thềm lục địa
(CLCS) của Liên Hiệp quốc một phần của những yêu sách đối với “thềm lục địa mở
rộng”.
Theo nhà
nghiên cứu Phan Văn Song, Việt Nam cần phải hoàn thành hồ sơ năm 2009, do bởi
còn lại khu vực Giữa và phần cực Bắc của khu vực phía Bắc của biển Đông cần phải
bổ sung. Trong đó, phần cực Bắc của khu vực phía Bắc có khả năng gặp rắc rối
nhiều với Trung Quốc. Do đó, có thể nhân việc hồ sơ Malaysia nộp lại năm 2019
và hồ sơ Philippines vừa mới nộp 6/2024 đều có vấn đề nên Việt Nam đã nộp hồ sơ
thềm lục địa mở rộng cho khu vực Giữa biển Đông để khẳng định quyền lợi hợp
pháp của mình với Malaysia, Philippines và cũng có thể với Trung Quốc nữa. Cùng
góc nhìn với ông Phan Văn Song, nhà nghiên cứu Hoàng Việt cũng cho rằng đệ
trình của Philippines hồi tháng 6/2024 là nguyên nhân chính thúc đẩy Việt Nam nộp
thêm hồ sơ mới. Ông nói tiếp:
“Theo tôi
suy đoán, có lẽ phía Việt Nam muốn đáp lại đệ trình của Philippines ngày 15-16
tháng 6, 2024. Việt Nam phải bảo vệ lợi ích của mình. Đó là lý do Việt Nam phải
gửi hồ sơ mới. Và cùng với hồ sơ đệ trình mới thì Việt Nam cũng gửi công hàm
lên UN phản đối đệ trình của Philippines, trong đó cho rằng đệ trình của
Philippines đã xâm lấn vào 200 hải lý thềm lục địa của Việt Nam.”
Hiệu lực “đảo”
của Hoàng Sa, Trường Sa?
Theo nhà
nghiên cứu Phạm Ngọc Minh Trang, điều thứ nhất cần lưu ý là Việt Nam tuyên bố
thềm lục địa mở rộng của mình tính từ đất liền, chứ không phải từ bất kỳ thực
thể nào ở Biển Đông mà Việt Nam có yêu sách chủ quyền. Cách làm này phù hợp với
Công hàm của Việt Nam gửi CLCS ngày 30 tháng 3 năm 2020 và Phán quyết về Biển
Đông năm 2016.
Thực vậy,
các đệ trình của Việt Nam, bao gồm cả đệ trình năm 2024, thể hiện một hàm ý rõ
ràng là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không có thực thể nào có hiệu lực của
đảo, theo quy định của UNCLOS.
Nhà nghiên
cứu Phan Văn Song nhận xét rằng các hồ sơ của Việt Nam năm 2009 (trước khi có
phán quyết PCA 2016) và 2024 (sau khi có phán quyết) đều chỉ sử dụng hiệu lực của
đất liền để tính thềm lục địa mở rộng, không sử dụng chủ quyền đối với các đảo ở
Hoàng Sa, Trường Sa. Ông cũng lưu ý rằng trong các hồ sơ/ công hàm kèm theo thường
có câu dự phòng về việc sẽ nộp thêm hồ sơ đối với các vùng biển khác theo quy định.
Từ sau khi có phán quyết của toà Trọng tài PCA 2016, qua các phát biểu phản đối
Trung Quốc về các vụ việc quanh Hoàng Sa, có vẻ đúng là Việt Nam không coi
Hoàng Sa và Trường Sa có hiệu lực của đảo. Và từ đó, có thể đoán rằng trong hồ
sơ lần này, Việt Nam cũng có quan điểm như vậy.
Ủy ban ranh
giới thềm lục địa Liên Hiệp quốc cho biết họ sẽ xem xét đệ trình của Việt Nam
trong chương trình nghị sự của phiên họp thứ 63 của Ủy ban, từ tháng 2 đến
tháng 3 năm 2025.
Nhận xét
Đăng nhận xét