BÙI GIÁNG -NHỮNG GIAI THOẠI TIÊU BIỂU
BÙI GIÁNG
NHỮNG GIAI THOẠI TIÊU BIỂU
Ðã có rất nhiều giai thoại, huyền
thoại về ông; vô số được thế gian tô bồi sau này, khó minh xác thực hư. Xin lai
rai vài chuyện tiêu biểu.
Chuyện thứ nhất. Xưa kia ở Quảng
Nam, quê chúng tôi, người ta kể rằng khi còn trẻ Bùi Giáng đã có vợ. Vợ sớm qua
đời. Hôm tẩm liệm, ông nhờ người hàng xóm làm thịt 21 con gà. Ông thành
tâm bỏ thịt con gà còn sống vào quan tài tẩm liệm người vợ thân yêu. Họ hàng thấy
quái. Bèn can ngăn. Ông bảo: "Vợ tôi ưa ăn thịt gà, nay có thể lên thiên
đường hoặc xuống địa phủ chi đó, thịt gà đâu ăn". Câu chuyện trên là hoàn
toàn khó tin. Bịa đặt, phao tin đồn nhảm, gia đình người ta kiện cho. Nhưng cái
tuyệt hảo ở đây là người đời rất đỗi yêu ông, giai thoại trên như phóng họa phần
nào những quái ảnh kỳ tâm nơi một Bùi Giáng lắm điều xem ra bất khả tư nghị.
Bà đi thể điệu bước ra/ Tay khăn
tay áo là hoa thêu thùa/ Bà về cỏ rậm dậu thưa/ Đêm tàn cấm nguyệt chiều trưa
lâm tuyền.
Chuyện thứ hai. Vào đầu thập
niên sáu mươi có lúc ông đi dạy Việt văn ở trường trung học tỉnh lỵ. Một hôm giảng
Truyện Kiều, đến chỗ nàng Kiều phải hồng trần lưu lạc, thầy Giáng khóc òa. Khóc
vỡ tan. Nhảy phóc qua cửa sổ lớp học, băng bộ ra bến xe, về Sài Gòn. Học trò
nam nữ ngồi chờ mãi, tưởng thầy đi đâu đó sẽ trở lại. Trên bàn sách vở, bao thuốc
lá hãy còn. Hóa ra thầy "bay" luôn, bỏ lớp bỏ trường, bỏ cả tỉnh lỵ
nhiều năm sau. Hỏi hà cớ. Thầy ngậm ngùi nói mần răng trở lại nơi Em Kiều đã một
lần hy sinh cho cái trò chơi nhân gian kỳ ảo chỗ liên tồn.
Nguyễn Du xưa kia đã một lần
than thở "Ðịa địa xứ xứ giai Mịch La" (Trên mặt đất này đâu đâu cũng
là dòng Mịch La) . Bùi Giáng hôm nay cũng có thể.
Sau này, đọc Mùa Thu Thi Ca, đoạn
nói về Ðoạn trường tân thanh, ta thấy ông viết:
"Nguyễn Du không kinh hoàng
nhảy lui. Cũng không bị tẩu hỏa nhập ma rú lên một tiếng như Zarathustra also
sprach. Ông đạm nhiên làm Nam Hải Ðiếu Ðồ. Kẻ câu cái gì tại Nam Hải?
Ðáp cho câu hỏi ấy, ta mượn một
câu thơ Phùng Khánh:
Con làm Nam Hải Ðiếu Ðồ
Ngồi câu con Cá Hư Vô Tâm Hồn.
Tựu trung mỗi phen sờ mó vào Kiều
nhi, vừa chạm tới những tuyệt diệu từ lãng đãng phù động kia, chớm gặp Xuân đã
ngộ phải Thu, vừa ướm hỏi ra Thu đã vấp phải Ðông Phong Thanh Hạ, vừa tân thanh
ngâm bãi đã trường đoạn thê nhiên, chợt mới hội thương tình đã hốt bách cảm
sinh, mới vừa mơ màng nhìn Hồng Lĩnh vân phong đã giật mình nghe ra Tiền Ðường
triều tiêu, chưa kịp qui ẩn kinh, đã bàng hoàng với phiến oan thanh. Bỏ ra Nam
Hải buông câu chỉ bắt được Hư Vô Con Cá..."
Chuyện thứ ba. 1975. Thời của
thu vàng một loáng hóa rừng phong hoang hồng, xao xác đến muôn trùng số mệnh
con người hoa cỏ. Tôi có dịp lai rai sống với Bùi Trung Niên Thi Sĩ. Thưở ấy
đói kinh. Người người tăng gia, nhà nhà sản xuất. Cuốc đào cả lề đường hè phố,
vườn biệt thự, trồng luống khoai hàng sắn. Cày xới nát bộ não vì cái ăn, cái Ði
- Ở. Tâm linh màu chì. Một hôm chúng tôi đang đi long nhong gần nhà thờ Ba
Chuông kiếm vài chung quốc lủi, Bùi Giáng bỗng nói: nè cha, ta về nhà chút đã.
Tôi hỏi về mần chi. Ông bảo cho heo gà ăn chớ không tụi nó chết. Hóa ra thi sĩ
cũng tăng gia sản xuất. Về nhà - trong hẻm, gần cửa xe lửa số 6 - đã thấy ngay
trước hàng hiên có mấy con... heo đất, mấy con vịt nhựa - loại được khoét một
đường rãnh trên lưng, để bỏ tiền tiết kiệm. Chúng được đặt trong rọ, hoặc úp bằng
những cái rổ đàng hoàng, như heo gà thật. Bên con heo đất hãy còn mấy cọng rau
tươi, nơi gà vịt nhựa có dăm hạt gạo vung vãi. Một người bà con nói nhỏ với
tôi: "Phải chăm sóc cẩn thận, ảnh về thấy heo gà không có thức ăn ảnh
khóc".
Trên đây, ba giai thoại tiêu biểu
về mỗi Bùi Giáng.
Giai đoạn đầu, thuở liệm vợ bằng
thịt gà sống đã phôi pha hoang đường, định mệnh chỉ ra ông sẽ là một hiện tượng
kỳ vĩ, khác người. Một cái Ðiên đang hăm he cái Tỉnh. Một Muôn Ðiệu Tài Hoa sẽ
vùi chôn người Bùi Giáng thường tình. Cuộc điêu linh sẽ gạn lọc, phiên dịch,
phơi bày ông ra giữa trận đồ hoang vu nồng cháy của Phố Thị Ðìu Hiu, của Mù Sa
Cố Quận. Sông ơi em bỏ sa mù/ Đi thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau/... Một đời
lận đận đo rồi đếm/ Mỏi gối người đi đứng lại ngồi.
Giai thoại thứ hai nhằm vào thời
ông rời quê nhà - xứ Trung Việt nơi ông đã từng chăn dê; đã lùa bò vào đồi sim
trái chín - để vào Sài Gòn; là khởi nguyên nơi ông mùa tinh hoa tụ hội: Thi tập
Mưa Nguồn chào đời. Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước miên trường
phía sau. Sau đó là những tuyệt phẩm: Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mùa Thu Thi
Ca, Ðường Ði Trong Rừng, Sương Tỳ Hải, Sa Mạc Phát Tiết, Sa Mạc Trường Ca,
Trăng Châu Thổ, Lễ Hội Tháng Ba, Sương Bình Nguyên, Biển Ðông Xe Cát, Lời Cố Quận,
Ngày Tháng Ngao Du v.v... Ông dịch vô số tác giả từ Đông chí Tây, cổ kim; dịch
rất tài hoa thông suốt, như Hoàng Tử Bé, Ngộ Nhận, Khung Cửa Hẹp, Kim Kiếm Ðiêu
Linh, Hòa Âm Ðiền Dã v.v...
Sức điên, sức rong chơi, sức đọc,
sức làm việc của Bùi Giáng là vô cùng tận. Ông là tượng trưng cho sự nhạy cảm,
sự thông minh thoáng đạt, và sự bất định, bay bổng. Ðây là tai họa tự chính ông
- tự đọa đày trực diện. Lúc này ông đã là một hấp lực kỳ vĩ với người đọc. Ðọc
ông là si mê mơ màng, là lơ đãng tìm ra thuốc chữa cho một cần thiết thoát ly,
đối kháng, chối từ, tái thẩm định. Là dìu dặt vào hương vị đắng cay mật ngọt thời
hoang hóa hòn đạn làm nổ trái bom, điêu linh giữa tồn sinh phân hủy, giữa gươm
đao đang thừa mà hụt hao nhân ái. Là chiến đấu thoát vượt cuộc khổn vây công bằng
tự do; một xô bồ rừng rú tư tưởng; một trần gian xanh đen đến tiêu hao, phân ly
chính mình. Bờ Lúa của Bùi Giáng.
Em chết bên bờ lúa
Ðể lại trên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con
Anh qua miền cao nguyên
Nhìn mây trời bữa nọ
Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya cuốn gió
Mười năm sau xuống ruộng
Ðếm lại lúa bờ liền
Máu trong mình mòn rỗng
Xương trong mình rã riêng
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang.
Giai thoại thứ ba là hiển thị cuộc
hí lộng đã dắt díu thi sĩ chơi với đồ nhựa vô tri. Ký gởi sự sống trên những
"con-vật-không-có-sống-không-có-chết", là lúc ông xấn tới tột đỉnh đất
trời đổ lộn nguyên khê. Ông tỉnh táo trong một trạng thái đặt biệt của người
điên. Ông sắp xếp cái Ðiên theo cách người tỉnh. Cái điên phần nào giúp ông
siêu thoát. Nhưng cũng đặc biệt đọa đày cho ông là chính ông ý thức về cái điên
của mình: Xuống sông xuống biển hãi hùng/ Mà không thể giết được linh hồn mình/
Trải bao nhiêu trận bất bình/ Cuồng điên tôi tự giết mình tôi chơi. Là tự hiểu:
Tôi từ khởi sự cuồng điên/ Tôi từ uống rượu triền miên tháng ngày/ Hét la tháng
rộng năm dài/ Tình yêu tiêu diệt từ ngoài tử sinh.
Khoảng đầu thập niên 70 có lần
người ta đưa ông vào nhà thương Biên Hòa chữa cái bệnh đứng ngã ba nhìn ra ngã
bảy. Từ nhà thương điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh, bèn hỏi một câu
thường tình: "Nhà thương điên Biên Hòa trị cái tẩu hỏa hay hỉ!". Ông
trả lời tỉnh queo: "Chữa trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình
điên số một, khi vô nhà thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên
tiểu thủ công nghiệp; trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ
đại hơn mình nhiều. Do vậy mà mình tự động thôi điên".
Có thể Bùi Giáng chẳng điên.
Thiên địa nó tẩu hỏa nhập ma; chính thái cực lưỡng nghi nó lôi ông vào trận địa
gây cấn tà huy. Hãy đọc một đoạn nhỏ trong Mùa Thu Thi Ca, sau khi nhà thơ đứt
phèo phổi được tin Marilyn Monroe đang lộng-lẫy-một-tòa lại tự động chuyển-sang-từ-trần
bên trời Tây:
"Mọi Nhỏ - Tại sao chị tự tử
Monroe - Tại vì chị là người da
trắng. Huống hồ nữa là...
Mọi Nhỏ - Là sao huống nữa?
Monroe - Huống nữa là màu da trắng
của chị còn trắng hơn tất cả màu da của mọi người da trắng khác.
Mọi Nhỏ - Thế nghĩa là màu da trắng
của chị đã đạt quai nhai cảnh giới của lô hỏa thuần thanh thánh thần thiên tiên
liên tồn tố bạch?
Monroe - Nhiên
Mọi Nhỏ - Sao gọi là liên tồn tố
bạch?
Monroe - Tố bạch là tách bộ.
Mọi Nhỏ - Còn liên tồn? Cũng đồng
nghĩa với tồn liên chăng?
Monroe - Nhiên".
Sau, chết rồi mà em Monroe lại gặp
tình cờ em Mọi Nhỏ. Mọi Nhỏ lúc này đã dấn mình một cách nhiệt huyết vào trung
tâm điểm lửa đạn chiến tranh Việt Nam. Monroe ngậm ngùi hỏi:
"Monroe - Chị tự tử đã
đành. Sao em cũng tự tử? Em ở trong rừng mát mẻ, em tự tử làm gì cho phí mất
màu da bồ quân bánh mật của em như thế?
Mọi Nhỏ - Em đâu có tự tử. Chính
là thật ra cái hòn đạn nó tự tử em.
Monroe - Hòn đạn nào như thế?
Mọi Nhỏ - Hòn đạn hoặc trái bom
gì đấy. Nó nổ một trận tam bành. Nó tự tử mất em, đồng thời với cái truông đèo
thơ mộng chiều hôm qua.
Monroe - Sao em không dời
đi nơi nào ẩn trú, lại ở yên một chỗ mà chờ đợi đạn bom mà làm gì như thế?
Mọi Nhỏ - Dời đi nơi khác
thì đồng thời phải dời cái truông đèo đi nơi khác. Em sức mấy mà làm cho xuể sự
đó. Kể ra lúc bấy giờ em cũng định lặn xuống ở dưới đáy nước cái khe kia thì thật
là bảo đảm nhưng không kịp. Cái bom nổ còn chớp nhoáng hơn cái ý định nảy ra
trong đầu óc em."
Ðâu phải con người không chuẩn bị
kịp cho một trái bom nổ chớp nhoáng. Trong kiếp người chúng ta có những cái vô
cùng không kịp. Ðã vô cùng từ bỏ vườn cũ truông đèo không mang theo, trong hun
hút máu xương. Ðã một phương trời gom nhặt phút sống, mà vắng mất nắm đất bên
đàng chỗ cổng làng khe nước rẫy nương. Bây giờ ta hỏi lại thu/ Khu vườn lá ngọc
sao thu phiêu bồng. Nơi hải giác thiên nhai anh hay tôi, Em Mọi hay Ðêm Nguyệt
Cầm Ca - Ly, đã thức giấc nỗi lòng Nhật mộ hương quan hà xứ thị( Lúc trời chiều
đứng ngắm cảnh tự hỏi đâu là quê nhà - Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu) Và đâu phải
anh tự do hân hạnh được quyền có hay không cái tẩu hỏa nhập ma. Trái bom nó - tự
- tử - em kia mà
Cung Tích Biền
Nhận xét
Đăng nhận xét