NGUYỄN DU VIẾT TRUYỆN KIỀU NĂM 14 TUỔI?
NGUYỄN DU VIẾT TRUYỆN KIỀU
NĂM 14 TUỔI?
Như chúng tôi đã có lời
thưa từ bài báo trước, trong Thơ quốc âm Nguyễn Du (Nxb Giáo dục, H, 1996),
thay vì việc xem "bản Kinh" của Truyện Kiều là bản sách in bởi vua Tự
Đức, Nguyễn Thạch Giang đã viết đó chỉ là những bản chép tay bởi các quan văn
trong triều. Điều này là rất đúng.
Thế nhưng, cũng trong
công trình này, nếu như trước đây (1972), khi viết về việc Phạm Quí Thích
"đưa in" Truyện Kiều ở phố Hàng Gai - tức "bản phường" đầu
tiên, Nguyễn Thạch Giang còn dùng hai chữ "tương truyền" thì nay, ông
lại khẳng định việc đó(1). Chẳng những thế, ông còn cho biết năm Phạm Quí Thích
mang khắc in Truyện Kiều thì Nguyễn Du đã...mười lăm (15) tuổi (Sđd, tr. 14).
Như thế thì kỳ lạ quá. Nhưng ta đừng lấy làm lạ. Bởi vì ở hai trang sau (17 và
18), ông đã đưa ra tài liệu để chứng minh Nguyễn Du viết xong Truyện Kiều từ
năm 14 tuổi. Tôi xin phép được chép nguyên văn sự trình bày của ông để bạn đọc
tiện theo dõi:
"Năm 1771, thân
phụ ông là Nguyễn Nghiễm về trí sĩ, (...) Nguyễn Du cùng mẹ là Trần Thị Tần
theo cha về Tiên Điền, suốt thời thơ ấu đến năm 19 tuổi đi thi ra Bắc làm quan.
"Bấy giờ ở Tiên
Điền và Trường Lưu có trường học lớn của Tiến sĩ Nguyễn Huệ, anh Nguyễn Nghiễm,
bác Nguyễn Du, có Phúc Giang thư viện của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh. Nguyễn Du
chắc chắn là môn sinh của những trường học lớn này. Lại nữa, Nguyễn Huy Oánh đi
sứ năm Ất Dậu (1763) có mang về nhiều sách Trung Quốc. Ta không loại trừ khả
năng Nguyễn Huy Tự đã đọc Đệ bát tài tử thư Hoa tiên ký để viết Hoa tiên cũng
như khả năng Nguyễn Du đã đọc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để viết
Truyện Kiều trong thời gian ở quê nhà, qua lại thư viện Phúc Giang ở Trường
Lưu. Mà điều này là có thật. Bản Vương Thúy Kiều truyện - Cổ Hoan Nghi Tiên
Nguyễn gia tàng bản - Biệt hữu diễn Nam âm nhất bản vốn lưu giữ tại Viện Văn
hóa Trung Bộ mà ta đọc được ở thư viện nhà thờ Quận vương Tôn Thất Hân (Huế) là
một chứng cứ.
"Bản này là bản
sao lại bản gốc chép tay vào năm Long Phi Kỷ Hợi (1779) Cảnh Hưng thứ 40. Bản
sao trên khổ giấy 14x24, gồm 67 tờ tóm tắt thật đầy đủ 20 hồi Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân, liền một mạch...
"Chúng ta tin rằng
chính bản thư thành 1779 này là do Nguyễn Du tóm lược cuốn Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân mà Nguyễn Huy Oánh đã mang từ Trung Quốc về tàng trữ tại
Phúc Giang thư viện trong thời gian Nguyễn Du lui tới học tập (?), nấu sử sôi
kinh ở đây (?). Và Nguyễn Du đã dựa vào cuốn truyện đó mà sáng tác truyện Kiều.
"Điều này cũng
phù hợp với lời các cố lão ở Tiên Điền và Trường Lưu kể rằng: Nguyễn Du có thói
quen nằm đưa võng mà làm Kiều, được câu nào thì ghi lên vách đố, thỉnh thoảng
sang Trường Lưu trao đổi với bà con họ Nguyễn Huy, bấy giờ có bà Nguyễn Thị
Đài, cháu Nguyễn Du, vợ Nguyễn Huy Tự, giỏi Nôm đã góp nhiều ý kiến cho chú. Có
điều, Nguyễn Du bấy giờ chỉ cảm thấy tài sắc Kiều bị vùi dập mà động lòng trắc ẩn,
mới là bản thảo đầu chưa trải qua những lần sửa chữa về sau của chính tác giả,
trải qua nhiều lần nhuận sắc của bạn bè (?), của nhân dân (?) để có một bản Kiều
hoàn hảo như ngày nay"...
"Bản Biệt hữu diễn
âm nhất bản chắc chắn là bản sao của bản Kiều Tiên Điền. Bản này còn nguyên vẹn
trong tủ sách của cụ Nghè Mai (...) mà chúng tôi đã có dịp nghiên cứu văn bản từ
những năm 1953, 1961, 1962, 1963 trong những lần đi nghiên cứu ở Tiên Điền.
"Chúng tôi cho rằng
bản Vương Thúy Kiều truyện này vốn là sách của thư viện Tụ Khuê, hay của thư viện
Càn Thành được sáp nhập vào Viện Văn hóa Trung Bộ thành lập vào tháng 10 năm
1945 do cụ Nguyễn Đình Ngân làm giám đốc, bấy giờ cũng chịu chung số phận khi mặt
trận Thừa Thiên bị vỡ ngày 9.2.1947. Tài sản của Viện bị phá hoại nghiêm trọng,
sách Hán Nôm đủ loại tản mác trong dân gian và được dùng vào đủ mọi việc kể cả
việc đun nấu. May bản Vương Thúy Kiều truyện không bị phá hủy mà được thư viện
cụ Tôn Thất Hân lưu giữ. Gia đình cụ Tôn Thất Hân cho tôi biết chắc rằng thư viện
cụ còn một bản Kiều chép tay nằm lạc trong mấy tủ sách lớn còn lại, hiện chưa
tìm thấy"(2) (Sđd, tr.17,18,19)
Tôi đã cố gắng ghi hết
sức đầy đủ tư liệu, lập luận của soạn giả Thơ Quốc âm Nguyễn Du. Đoạn trích có
vẻ khá dài, nhưng không có cách nào khác được. Bạn đọc có thể thấy rồi, vì nghề
nghiên cứu văn bản vẫn là rắc rối. Nhưng rối, còn là vì đoạn văn của soạn giả
có nhiều chỗ mâu thuẫn. Chẳng hạn đã nói "bản Vương Thúy Kiều truyện không
bị phá hủy" "mà ta đọc được", thì tất nhiên là cái bản Truyện Kiều
chép tay kia phải còn chứ sao lại "chưa tìm thấy"? Mà đã "chưa
tìm thấy" sao "biết chắc rằng" "còn"? Bản Kiều
"chưa tìm thấy" này có phải là bản Biệt hữu diễn âm nhất bản (riêng
có một bản diễn ra thơ Nôm) được đóng liền vào Vương Thúy Kiều truyện - Cổ Hoan
Nghi Tiên Nguyễn gia tàng bản - như tên tài liệu đã thể hiện chăng?
Để bạn đọc tiện theo
dõi, tôi xin trình bày sự hiểu của tôi về đoạn văn của Nguyễn Thạch Giang như
sau: Soạn giả muốn công bố cho ta biết rằng ông có một tài liệu "sao lại bản
gốc chép tay". Bản gốc này được viết vào năm 1779 (tức năm Nguyễn Du 14 tuổi).
Trong bản sao này, có hai văn bản: Một là Vương Thúy Kiều truyện - Cổ Hoan Nghi
Tiên Nguyễn gia tàng bản, là bản "Nguyễn Du tóm lược cuốn Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm Tài Nhân". Ta có thể hình dung đây là bản tóm tắt 20
hồi sách Trung Quốc mà Nguyễn Du dùng làm "đề cương" để viết Truyện
Kiều; Hai là Biệt hữu diễn Nam âm nhất bản, "chắc chắn là bản sao của bản
Kiều Tiên Điền" mà soạn giả đã có dịp nghiên cứu từ những năm 1953 đến
1963.
Thế nghĩa là năm 1779,
Nguyễn Du 14 tuổi, đã viết xong Truyện Kiều. Đó là bản Tiên Điền!
Nhưng nếu dúng như thế
thì sao Nguyễn Thạch Giang lại nói rằng đây "mới là bản thảo ban đầu chưa
trải qua những lần sửa chữa về sau của chính tác giả..."? Đây là cái lầm lớn
của Nguyễn Thạch Giang. Tôi không khó khăn gì để chứng minh chắc chắn rằng
"bản Tiên Điền" mà Nguyễn Thạch Giang đã nghiên cứu, chỉ là bản chép
lại bản in năm 1902 của Kiều Oánh Mậu chứ quyết không thể là "bản thảo ban
đầu" của Nguyễn Du vào năm 1779. Làm sao mà một cậu bé 13 tuổi tang cha
chưa xong đã chịu tang mẹ như thế mà có thể nằm võng mà sáng tác được Truyện Kiều
khi 14 tuổi?! Mà làm sao cậu ta ở lì tại quê cha từ năm 1771 (7 tuổi) đến năm
19 tuổi mới "đi thi, ra Bắc làm quan" mà lại có thể gặp cụ Tiến sĩ Phạm
Quí Thích (1759 - 1825) đúng vào cái năm cụ đỗ Tiến sĩ (1779) để cụ có thể mang
in cái Truyện Kiều của tác giả 14 tuổi kia! Trong việc nghiên cứu này mà cứ đặt
toàn giả thiết như "ta không loại trừ khả năng" này "khả
năng" nọ; "Chúng ta tin rằng"; Lời các cố lão kể rằng;
"Truyện Kiều đã" qua nhiều lần nhuận sắc của bạn bè, của nhân
dân"... thì rất nguy. Nguy, là vì cứ tin vào giả thuyết, giai thoại như thế
thì khi gặp phải tài liệu rất dễ bị "say", bị mắc cạn trong đó.
Quả thật là Nguyễn Thạch
Giang đã dùng phải tài liệu giả đề năm "Long Phi Kỷ Hợi Cảnh Hưng thứ
40" (1779). Giả là giả ở hai chữ LONG PHI này.
Số là, ngày xưa, để
ghi các dòng "lạc khoản" trên bia đá hay đề "lạc khoản" -
năm, ngày tháng viết tác phẩm, thường thì người ta viết rõ là năm thứ mấy của
niên hiệu vua nào. Thí dụ: trên bia đá khắc " Hoàng triều Vĩnh Thịnh vạn vạn
niên chi thất" tức là năm thứ bảy niên hiệu của triều vua Vĩnh Thịnh
(1711). Cách ghi theo niên hiệu vua (như Vĩnh Thịnh, Cảnh Hưng, Gia Long, Minh
Mệnh, Tự Đức...) vừa giản đơn vừa không sợ nhầm lẫn, dễ qui ra năm dương lịch;
mà người đương thời cũng thấy dễ hiểu vì họ sống ở thời vua nào thì bia đá sách
vở ghi niên đại bằng niên hiệu thời vua ấy.
Thế nhưng, ở Việt ,
ngoài cách ghi niên đại đơn giản ấy lại còn nhiều cách ghi rắc rối khác - trong
đó cách ghi theo thuật ngữ tượng trưng cho triều đại. "Đây là cách ghi đặc
thù trong văn bản bi ký nước ta. Hiện tượng này không nhiều về mặt thuật ngữ sử
dụng. Chúng tôi mới gặp hai trường hợp là THIÊN VẬN và LONG PHI. Tuy nhiên sự
xuất hiện của chúng lại khá phổ biến" (3). Tìm nguồn gốc và sự xuất hiện của
cách ghi niên đại này, các chuyên gia Hán Nôm thấy hai chữ "Thiên vận"
xuất hiện vào thời LÊ (nửa sau thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII). "Nghĩa của
hai chữ "Thiên vận" là "mệnh trời, triều đại hưng thịnh, đã nhờ
được mệnh trời".
Còn hai chữ LONG PHI đến
đời NGUYỄN mới xuất hiện. "Long phi vốn là chữ trong sách Kinh Dịch, chỉ bậc
thánh nhân ở ngôi báu. Người đời sau dùng để chỉ bậc đế vương ở ngôi vị cao
quí". Ta dễ dàng tìm thấy hai chữ "Long phi" trên bia đá, sách
in sau đời vua Tự Đức.Thí dụ "Trên chuông Đông Dư (Gia Lâm Hà Nội) vừa ghi
"Hoàng triều Bảo Đại", vừa ghi "Long phi Giáp Thân". Tra
ra, thì thấy năm Giáp Thân (1944) thuộc triều Bảo Đại. Tra cứu, khảo sát nhiều
tấm bia, các chuyên gia Hán Nôm dám khẳng định rằng: chắc chắn hai chữ LONG PHI
ra đời " ở giai đoạn cuối Nguyễn mà sớm nhất không thể vượt quá niên hiệuTự
Đức được (4). Thí dụ năm Long Phi Ất Sửu trên bia chùa Phương Viên Hà Nội là
năm 1925; cuốn Quốc âm thi tuyển có chép thơ Hồ Xuân Hương khắc in năm
"Long Phi Giáp Dần" (tức năm 1914); lần sau khắc lại đề "Long
phi Tân Dậu xuân tân san" (tức năm 1921). Đã nói đến hai chữ "Long
Phi", cán bộ viện Hán Nôm ai cũng biết là văn bản đó thuộc vào niên đại
"Nguyễn muộn" (tức là từ sau đời Tự Đức - 1848 đến 1883).
Vậy thì hai chữ LONG
PHI trên văn bản mà Nguyễn Thạch Giang khai thác đã chứng tỏ đó là văn bản
"Nguyễn muộn", văn bản viết sau đời Tự Đức (1848 - 1883). Sau, là vì
đời Tự Đức chỉ có các năm Kỷ Dậu (1849), Kỷ Mùi (1859), Kỷ Tỵ (1869), Kỷ Mão
(1879) chứ không có Kỷ Hợi. Thế mà sau Tự Đức thì năm Kỷ Hợi là năm 1899. Năm
này đã thuộc đời vua Thành Thái (1889 - 1907) rồi!
Thế thì, sớm nhất, văn
bản mà Nguyễn Thạch Giang đưa ra phải được viết vào năm 1899 chứ không thể là
năm 1779 được. Tôi còn ngờ rằng: vào năm 1899, chưa ai cố ý cổ hóa văn bản, làm
văn bản giả về những sự quanh Truyện Kiều. Nếu cái ngờ của tôi là đúng, thì văn
bản này đã được "sản xuất" vào năm Kỷ Hợi (1959) tức là năm thứ 15
niên hiệu Việt Nam dân chủ Cộng hòa!
Rõ ràng là không thể dựa
vào văn bản ở nhà thờ Quận vương Tôn Thất Hân (Huế) - một tư liệu mang niên đại
giả cổ - để làm chứng cứ cho việc Nguyễn Du vừa nằm võng vừa viết Truyện Kiều từ
năm 14 tuổi.
Các cụ bảo: sai một ly
đi một dặm. Việc đời đã thế, việc nghiên cứu văn học cổ, văn bản cổ càng là như
thế. Rất mệt. Mà viết một bài như thế này, cũng mệt lắm. Mệt, không hẳn chỉ ở lập
luận khoa học mà mệt nhiều khi lại là mệt ở cái lẽ "tôi yêu thầy tôi nhưng
tôi còn yêu lẽ phải hơn", nên cứ phải vượt qua sự đàm tiếu xì xèo mà viết.
ĐÀO THÁI TÔN
----------------------------------------------------------------
(1) Chúng tôi đã chứng minh:
không có bản in này (Tạp chí Sông Hương và Tạp chí Văn học số 1 năm 1998)
(2) Những dấu (?) xen vào giữa
các đoạn văn trích cùng những chữ nghiêng, in đậm là cho chúng tôi. Đ.T.T
(3), (4) Đinh Khắc Thuân: Một số
vấn đề về niên đại bia Việt . Tạp chí Hán Nôm số 2/1987.
Nhận xét
Đăng nhận xét