Bài 11-NGÂN HÀNG THU HỒI 5.7 TẤN VÀNG TỪ THỤY SỸ
Bài 11
NGÂN HÀNG THU HỒI
5.7 TẤN VÀNG TỪ THỤY SỸ
Hồi tôi làm tổng giám đốc
Ngân hàng Nhà nước, có Việt kiều về nước đã hỏi thẳng tôi rằng: Sau ngày
30-4-1975, chính quyền Việt Nam cộng hòa để lại nhiều thứ. Đôla ở ngân hàng Mỹ,
vàng đầy trong kho bạc Bến Chương Dương. Cơ sở hạ tầng miền Nam cũng còn gần
như nguyên vẹn.
Thành phố Sài Gòn thì vẫn
100% như cũ, kể cả hàng chục ngàn doanh nhân, hàng chục ngàn cơ sở doanh nghiệp
lớn nhỏ chẳng cái nào bị đốt phá.
Vậy tại sao sau ngày 30-4 nước
mình lại khó khăn như vậy? - những ngày cuối đời, ông Lữ Minh Châu đã tâm sự với
người viết như thế...
Ngân hàng giữ 5,7 tấn vàng VN tại Thụy Sĩ
- Ảnh tư liệu, Vietcombank cung cấp
Những khó khăn
Đó là hệ quả Mỹ không chỉ cắt
hoàn toàn viện trợ mà còn cấm vận khắc nghiệt, đặc biệt là miền Nam vốn đã sử dụng
phương tiện sản xuất của Mỹ và phương Tây nên không có phụ tùng để tiếp tục hoạt
động. Năm 1977 đến lượt Trung Quốc cắt viện trợ.
Liên Xô và Đông Âu dù vẫn
còn giúp đỡ vài năm nữa, nhưng do trượt giá đồng tiền của họ nên lượng hàng
hóa, nguyên liệu thực về nước chỉ còn phân nửa trước đây.
Tình hình như vậy làm sao
tránh khỏi khó khăn? Ngay cả Việt Nam cộng hòa gần đến hồi kết thúc cuộc chiến
cũng khẩn thiết, van nài vay thêm tiền từ Mỹ.
1 tỉ USD không có, 700 triệu
USD không ra, cuối cùng 300 triệu USD cũng không được, phải đôn đáo qua cả Ả Rập
để tìm hi vọng cuối cùng mà vẫn bất thành.
Ý kiến cho rằng do chính
sách cứng rắn cải tạo, quốc hữu hóa nền kinh tế miền Nam sau năm 1975 đã làm đất
nước rơi vào khó khăn là đúng nhưng chưa đầy đủ.
Còn rất nhiều nguyên nhân
khó khăn khác, chưa kể hai cuộc chiến biên giới nổ ra khốc liệt sau đó.
Ông Ba Châu tâm sự mình gắn
với ngành tài chính - ngân hàng từ trước tháng 4-1975 đến gần 20 năm sau đó,
nên là chứng nhân trong cuộc của nhiều vấn đề.
“Cuộc chiến vừa kết thúc,
chúng tôi đã lật từng sổ sách, chứng từ, kiểm tra từng kho quỹ, tầng hầm ngân
hàng để tìm nguồn khôi phục đất nước sau chiến tranh. Thấy thỏi vàng nào cũng mừng.
Tìm ra đồng đôla nào cũng vui. Trung ương cử người vào giám sát chặt chẽ và
chúng tôi vẫn liên tục báo cáo ra Hà Nội” - ông Ba Châu kể.
Riêng vàng của Việt Nam cộng
hòa lúc ấy để lại có hai nguồn. Thứ nhất là nguồn trong nước với 16 tấn vàng dự
trữ ở tầng hầm Ngân hàng Quốc gia.
Về sau, lượng vàng này được
đưa qua Liên Xô bán cùng với các loại vàng có trong nước gồm tất cả 40 tấn, để
trả nợ và giải quyết các nhu cầu khó khăn (Tuổi Trẻ đã đăng chi tiết trong hồ
sơ “Vượt qua đêm dài đói kém”).
Thứ hai là 5,7 tấn vàng do
Việt Nam cộng hòa ký gửi ở Thụy Sĩ. Theo ông Ba Châu, số vàng dự trữ này vô
cùng quý giá với tình hình của đất nước lúc bấy giờ. Nó cần được bán ra để giải
quyết các khó khăn cấp bách.
Thu hồi và... bán
Tuy nhiên, chuyện bán vàng dự
trữ quốc gia không hề đơn giản, nhanh chóng như nhiều người tưởng. Nó được
trung ương đặt lên đặt xuống, cân nhắc rất nhiều.
Ông Dễ (nguyên phó tổng giám
đốc Vietcombank) kể có lần ông nghe cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Khó khăn
quá, không còn cách gì khác thì phải bán vàng thôi. Sau này mình có điều kiện,
mình sẽ mua lại”.
Theo ông Dễ, sở dĩ 5,7 tấn
vàng từ Thụy Sĩ không được bán ở thị trường quen thuộc Liên Xô vì đã bán ở quốc
gia này 40 tấn vàng rồi.
Tuy nhiên, nếu để yên ở ngân
hàng Thụy Sĩ thì cũng không yên tâm trước các biện pháp cấm vận ngày càng khắt
khe của Mỹ.
Sau năm 1975, chính quyền nước
này đã phong tỏa hơn 97 triệu USD của Việt Nam cộng hòa gửi ở các nước. Rất có
thể Thụy Sĩ, một nước trung lập, rồi cũng có thể phải chịu áp lực từ Mỹ, gây
khó khăn cho Việt Nam.
Các cuộc họp của Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước và Vietcombank đã đặt vấn đề phải xử lý an toàn 5,7 tấn vàng
này.
Cân nhắc ban đầu là chuyển về
nước, nhưng trước tình hình khó khăn nên buộc phải tìm cách bán. Khả năng bán ở
Liên Xô cũng được xem xét, nhưng cuối cùng quyết định chuyển về ngân hàng Tiệp
Khắc.
Theo ông Dễ, có nhiều nguyên
nhân, trong đó có cả nguyên nhân “chia nhỏ ra thì hay hơn dồn tất cả vào một chỗ”.
Đầu tiên, ông Dễ và các cán
bộ nghiệp vụ của Vietcombank tiến hành đàm phán với Bank fur Internationnalen
Zahlung Sausgleih, ngân hàng Thụy Sĩ đang giữ 5,7 tấn vàng của Việt Nam gửi.
Công việc hơi tốn thời gian
và đòi hỏi nhiều chi tiết, nhưng cuối cùng cũng hoàn tất vì trước đó Việt Nam
đã chứng minh quyền thừa kế hợp pháp ở các tổ chức tài chính quốc tế.
Sau đó, họ làm việc với ngân
hàng quốc gia Tiệp Khắc đề nghị tiếp nhận số vàng Việt Nam chuyển đến từ Thụy
Sĩ.
Giai đoạn đàm phán này diễn
ra nhanh gọn hơn nhiều, vì Tiệp Khắc đã có mối quan hệ từ lâu với chính phủ Hà
Nội và viện trợ cho Việt Nam rất nhiều trong chiến tranh.
Các thủ tục chuyển giao quốc
tế hoàn tất. 5,7 tấn vàng được đưa về ngân hàng quốc gia Tiệp Khắc an toàn. Số
vàng này được Việt Nam nhờ Tiệp Khắc bán để lấy ngoại tệ.
Còn nửa tấn cuối cùng thì
chính trường Tiệp Khắc xảy ra bất ổn, nhưng Vietcombank đã kịp thời chuyển về
nước an toàn.
Riêng 2,7 tấn vàng còn lại
chưa bán hết ở Liên Xô cũng được chuyển về Việt Nam trước khi nước này xảy ra
thay đổi chính trị.
Đặc biệt, số ngoại tệ khả dụng
của Việt Nam cộng hòa gửi ở nước ngoài cũng được Vietcombank tiến hành các thủ
tục rút dần về nước để giải quyết tình trạng khan hiếm ngoại tệ nghiêm trọng.
Riêng hơn 93 triệu USD bị Mỹ
phong tỏa cũng được thu hồi sau khi Mỹ bãi bỏ chính sách cấm vận với Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Duy Lộ,
nguyên phó tổng giám đốc Vietcombank, Việt Nam không chỉ thu hồi được tất cả số
tiền gốc ngoại tệ ký gửi ở nước ngoài mà còn lấy được cả lãi với tổng số lên đến
gần 396 triệu USD.
Đó cũng được xem là một thắng
lợi lớn của những nhà hoạt động ngân hàng ở Việt Nam sau khi tiếp quản ngành
ngân hàng mà VNCH để lại...
----------------------------------
Nguyên phó tổng giám đốc Vietcombank Nguyễn Văn Dễ
là người trực tiếp thu hồi 5,7 tấn vàng gửi ở Thụy Sĩ.
Ông kể: “Cuộc tiếp quản hệ thống ngân hàng miền Nam
sau tháng 4-1975 đã đạt kết quả tốt đẹp.
Chính nghiệp vụ sổ sách chặt chẽ, khoa học của các
ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng Quốc gia VNCH trước năm 1975 đã giúp chúng tôi
nắm được chính xác tất cả tài sản quốc gia mà chính quyền miền Nam để lại.
Chúng tôi có thể biết rõ lượng ngoại tệ và vàng còn
bao nhiêu, đang nằm ở ngân hàng nào, nước nào, số nào bị Mỹ phong tỏa, số nào
có thể rút ra ngay được”.
Ngay từ tháng 9-1975, Việt Nam đã cử đại diện tham
dự các hội nghị thường niên của tổ chức tiền tệ IMF, WB, ADB.
Được Nhà nước ủy nhiệm thực hiện quyền thừa kế từ
chính quyền trước, đoàn đã chuẩn bị tất cả tài liệu, số liệu để đàm phán thu hồi
quyền lợi.
TUỔI TRẺ
Nhận xét
Đăng nhận xét