Bài 12 -SỰ KIỆN 30.4.1975 [Phần 2]
Bài 12
SỰ KIỆN 30.4.1975
[Phần 2]
CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH MỞ MÀN
Lúc 17 giờ ngày 26 tháng 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng với 5 quân đoàn ở 5 hướng tấn công: hướng Bắc với Quân đoàn 1, hướng Tây Bắc với Quân đoàn 3, hướng Tây và Tây Nam với Đoàn 232, hướng Đông với Quân đoàn 4 và hướng đông nam với Quân đoàn 2.
Ngày 27 tháng 4, sân bay quân sự Tân Sơn Nhất tại Sài Gòn chịu 3 loạt hỏa tiễn của Quân giải phóng, lần đầu tiên trong hơn 40 tháng[34] làm nhiều người chết và bị thương, nhà cửa đổ nát. Hai lính Mỹ thiệt mạng do hỏa tiễn, là những lính thiệt mạng cuối cùng của Mỹ trong cuộc chiến.
Tại mặt phía Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28 tháng 4, 1975, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ Ðô của chính quyền Sài Gòn không còn quân trù bị để phòng thủ. Họ buộc phải rút một liên đoàn Biệt Ðộng Quân đang hành quân về quận lỵ Cần Đước và đặt dưới quyền điều động của Bộ tư lệnh Biệt Khu Thủ Ðô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Quân giải phóng tại cầu Nhị Thiên Đường vốn đã bị chiếm từ rạng sáng ngày 29 tháng 4, 1975.
Các đơn vị nhảy dù phòng ngự tại phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần Trung tâm Huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lương Bà Quẹo, khu Bình Thới - Ngã ba Bà Quẹo, khu Bảy Hiền - Lăng Cha Cả đã cố gắng ngăn chặn đối phương. Một chiến đoàn thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt cách Nhảy dù tại vòng đai Bộ Tổng Tham mưu do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân và từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa và đánh bật đối phương ra khỏi trận địa.
Tuy nhiên các nỗ lực kháng cự lẻ tẻ này không làm chậm quân Giải phóng được bao nhiêu. Đến cuối ngày 28 tháng 4, tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng ở mọi hướng, quân Giải phóng có thể tiến ngay vào thành phố nhưng họ dừng lại để có thêm thời gian cho giải pháp đàm phán. Các lực lượng chính trị thứ ba dàn xếp để đưa Đại tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống trong ngày 28 tháng 4 năm 1975. Ngay khi nhậm chức để tiến hành đàm phán Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi.
4 giờ sáng ngày 29/4 tức 16 giờ theo giờ Washington, hỏa tiễn và đạn pháo Quân giải phóng đã nã tới tấp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, phá hủy nhiều phi cơ trên mặt đất, vô hiệu hóa phi trường này và gây cho số người Việt đang tụ tập ở đấy sợ hãi trốn chạy, một sự hỗn loạn thực sự.[36]
Tổng thống Ford triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia họp khẩn cấp lúc 19h 30, ông đã yêu cầu Đại sứ Graham Martin phải di tản ngay những người Mỹ còn lại và cả những người Việt Nam càng nhiều càng tốt.
Ở Sài Gòn và phần còn lại của Việt Nam Cộng Hòa, hàng triệu người dân Việt Nam bắt đầu tự đặt cho mình 1 câu hỏi mấu chốt: họ có thể ở lại sống dưới chế độ mới hay là tự tìm cách bỏ ra nước ngoài bằng đường biển.
Trong các ngày 28, 29 tháng 4 từ các hàng không mẫu hạm của Hạm đội số 7 ngoài khơi Thủy quân lục chiến Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người Việt đã từng cộng tác chặt chẽ với họ, trong đó có chiến dịch Babylift. Cuộc di tản đã diễn ra trong hỗn loạn vì rất nhiều người muốn ra đi nhưng không thể đáp ứng hết được. Các điểm đỗ của trực thăng náo loạn. Lính Thuỷ quân lục chiến Mỹ đã phải cố gắng mới duy trì được trật tự. Người Mỹ đã phải bỏ lại nhiều người Việt để ưu tiên người Mỹ vì số lượng phương tiện có hạn. Hình ảnh di tản đã in đậm trong trí óc nhiều người Mỹ và Việt như một kỷ niệm rất buồn. Đại sứ Graham Martin là một trong những người Mỹ cuối cùng ra đi. Trong số 120.000 người Việt và 20.000 người Mỹ được di tản trong đợt này, không có một người nào bị thiệt mạng do hoạt động quân sự của quân Giải phóng.
Quân giải phóng dừng lại bên ngoài thành phố một ngày để cho người Mỹ di tản hết mới vào. Theo lời tướng Trần Văn Trà, cánh quân của ông đã đợi vì mục đích chính là để giải phóng Sài Gòn chứ không phải để giết người Mỹ và sỉ nhục họ. Ở một cánh quân khác, theo hồi ký của tướng Hoàng Cầm, cánh quân của Quân đoàn 4 mà ông chỉ huy gặp rất nhiều kháng cự trên đường tiến về Sài Gòn và chỉ đánh được đến nơi vừa kịp sáng ngày 30 tháng 4.
Theo hồi ký các tướng tá của quân lực Việt Nam Cộng hòa như Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, và cựu dân biểu Lý Quý Chung, thì sáng ngày 28/4, tướng tình báo Pháp Francois Vanussème đã tới gặp tổng thống Dương Văn Minh và đề nghị Việt Nam Cộng hòa kêu gọi Trung Quốc đem quân can thiệp để cứu quân lực Việt Nam Cộng hòa đang trong cơn nguy kịch. Một nhân viên ngoại giao Trung Quốc đề nghị quân lực Việt Nam Cộng hòa hãy cố thủ, án ngữ Vùng 4 Chiến thuật, hứa hẹn Trung Quốc sẽ đem quân đánh vào biên giới miền Bắc Việt Nam để giải vây. Dương Văn Minh vốn đã được Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam thông qua em trai là Dương Thanh Nhựt (bí danh Mười Ty, đại tá Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) và gia đình đã thuyết phục từ trước, đã từ chối và nói:
"Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc"
Theo tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, thì Nguyễn Cao Kỳ còn tính làm một cuộc đảo chính chính phủ Dương Văn Minh mới thành lập để nắm quyền và ra lệnh cố thủ. Người Mỹ biết chuyện đó và giám đốc CIA ở Sài Gòn lúc đó là Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được manh động. Nguyễn Cao Kỳ nghe vậy thì dẹp bỏ kế hoạch vì ông ta hiểu rằng: nếu chống lại sách lược của Mỹ thì sẽ mang họa vào thân.
NGÀY 30 THÁNG 4
Ngày 29 tháng 4, sau sự
giận dữ của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Schlesiger và cố vấn Henry Kissinger ở
Washington vì sự nấn ná của Đại sứ Graham Martin ở Sài Gòn để cố tạo ra vẻ
"người Mỹ đàng hoàng ra đi", Tổng thống Mỹ Gerald Ford ra lệnh dứt
khoát: "Chấm dứt cuộc di tản vào 3 giờ 30 phút, giờ địa phương, sáng 30
tháng 4". Tuy nhiên, lệnh vẫn không thi hành kịp do sự chần chừ của
Martin, "cuộc tháo chạy" đã diễn ra cho tới khi chiếc trực thăng Mỹ
cuối cùng rời Sài Gòn vào lúc 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4.
8 giờ sáng 30 tháng 4
Tổng thống Dương Văn Minh và Bộ tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa hạ lệnh
đơn phương ngừng chiến sẵn sàng đón quân đối phương vào Sài Gòn để bàn giao
chính quyền. Ông tuyên bố
"Đường lối, chủ
trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào.
Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương
máu người Việt Nam. Vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng
hòa hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em
chiến sĩ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng
vì chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam để cùng nhau thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự và
tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào.".
Theo phía Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, lệnh
này trên thực tế cũng không còn tác dụng do phần lớn quân lực Việt Nam Cộng Hòa
lúc đó đã tan rã, phần nhiều ra hàng hoặc vứt bỏ vũ khí về với gia đình. Do đó
khi Quân giải phóng tiến vào Sài Gòn hầu hết chỉ gặp những ổ kháng cự nhỏ lẻ,
thiếu tổ chức. Việc đại úy Phạm Xuân Thệ yêu cầu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
Dương Văn Minh đầu hàng thay vì phương án thành lập chính phủ liên hiệp ba
thành phần nhằm buộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa trên khắp chiến trường buông
súng, tránh thương vong không cần thiết cho cả hai bên lẫn dân thường.
Theo Tổng trưởng Thương mại - Kinh tế Việt Nam
Cộng hòa, Nguyễn Văn Diệp, trước khi Quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn, tướng
tình báo Pháp là Francois Vanuxem của Pháp (lúc đó mới đeo hàm Đại tá) đến gặp
các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền - Chủ tịch Thượng viện Sài Gòn và Vũ
Văn Mẫu vào sáng 30/4 để đề nghị chính quyền Việt Nam Cộng hòa tiến hành hoãn
binh, không đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam mà
tiếp tục đưa ra yêu sách thành lập chính phủ liên hiệp. Nếu chính phủ liên hiệp
được thành lập, Pháp sẽ giúp chính quyền Việt Nam Cộng hòa nhận được sự bảo trợ
của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Tuy nhiên, Tổng thống
Dương Văn Minh ngay lập tức từ chối do không muốn thêm một lần làm tay sai cho
nước ngoài. Động cơ của Pháp lúc đó là muốn chính quyền Sài Gòn ngừng bắn để bảo
vệ các tài sản của Pháp tại Sài Gòn tránh khỏi sự tàn phá của việc giao tranh,
việc bảo vệ chính quyền Sài Gòn chính là bảo vệ các lợi ích của Pháp. Pháp muốn
thiết lập lại ảnh hưởng của họ trên thuộc địa cũ. Trong Bộ Ngoại giao Pháp và
các cố vấn ở Phủ Tổng thống có hai xu hướng giải quyết đối với vấn đề Sài Gòn.
Một thì ra sức hoạt động cho một sự thu xếp ngừng bắn, một thì chủ trương nên
tính chuyện làm ăn với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Thậm chí, Quân Giải phóng
bắt đầu chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, Pháp đã cử Đại sứ Pháp tại Hà Nội
Philippe Richer tới gặp Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Phạm Văn Đồng để
bàn cách lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu để dựng lên một chính quyền có thể
nói chuyện được với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Tổng
thống Dương Văn Minh đã nhìn ra ý đồ của Pháp và không muốn Trung Quốc can thiệp
vào quá trình tái thống nhất Việt Nam nên đã từ chối, chấp nhận đầu hàng Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để nhanh chóng có hòa bình và
thống nhất.
Tướng Dương Văn Minh
lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy không
còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay
ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rõ ở Tổng
thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh)
nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư
Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức
thì ngày 29/4/1975, đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ;
không di chuyển quân, không phá cầu...
9 giờ sáng cùng ngày,
đúng 3 tiếng đồng hồ sau khi chiếc trực thăng cuối cùng của Mỹ rời nóc tòa Đại
sứ quán, tướng Trần Văn Trà lệnh cho quân Giải Phóng tiến vào Sài Gòn từ năm hướng.
Họ đã tiến nhanh mà không gặp một sự kháng cự có tổ chức nào.
Đại đội 9, Lữ đoàn
273, Quân đoàn 3 gồm 4 xe tăng T-54 nhận nhiệm vụ thần tốc tiến về trung tâm
Sài Gòn. Dọc đường, 4 xe tăng gặp nhiều chốt chặn. Sau 30 phút, 4 chiếc xe tăng
của đại đội 9 đã tiêu diệt 12 xe tăng - thiết giáp của địch, 12 chiếc khác ra đầu
hàng, phía quân Giải phóng bị bắn cháy 1 xe tăng. Sau khi đánh bại quân địch tại
các trạm chốt ở khu vực Cầu Sài Gòn, Hàng Xanh, cầu Thị Nghè, 2 xe tăng số hiệu
843 và 390 tiến về Dinh Độc Lập. Xe 843 đi trước do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận
chỉ huy.
10 giờ 45 phút ngày 30
tháng 4, xe tăng mang số hiệu 843 húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập và bị kẹt
tại đó. Bùi Quang Thận - Đại đội trưởng, chỉ huy xe 843 - nhảy xuống xe, cầm lá
cờ chạy bộ vào. Xe tăng 390 dưới quyền chỉ huy của Vũ Đăng Toàn húc tung cánh cửa
chính của dinh.
11 giờ 30 phút cùng
ngày, Trung úy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt
Nam Cộng hòa trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam lên.
Cùng lúc này, đại úy
trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng lực lượng đột kích thọc sâu của
Quân đoàn 2 và biệt động thành Sài Gòn tiến vào dinh Độc Lập bắt Tổng thống cuối
cùng của Việt Nam Cộng hòa là ông Dương Văn Minh cùng toàn bộ những nhân vật chủ
chốt của nội các chính quyền Sài Gòn. Dương Văn Minh nói: "Tôi chờ các ông
tới để bàn giao chính quyền", Phạm Xuân Thệ trả lời: "Các ông đã
không còn gì để bàn giao. Thay mặt Cách mạng, tôi đề nghị ông ra lệnh đầu hàng
vô điều kiện để tránh đổ máu không cần thiết". Dương Văn Minh đồng ý.
Khoảng 12 giờ trưa, đại
úy Phạm Xuân Thệ đưa tổng thống Dương Văn Minh, thủ tướng Vũ Văn Mẫu lên xe
Jeep để đến đài phát thanh. Chiếc xe thứ hai chở trung tá chính ủy lữ đoàn xe
tăng 203 Bùi Văn Tùng cùng hai nhà báo Borries Gallasch (người Đức, báo Der
Spiegel) và Hà Huy Đỉnh. Tại đài phát thanh, tổng thống Dương Văn Minh thay mặt
toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn đã đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với
quân đội cách mạng (tức quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Thay mặt các đơn vị
Quân giải phóng đánh chiếm dinh Độc Lập, trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời tiếp nhận
đầu hàng. Chiến tranh kết thúc.
Ông Nguyễn Văn Tàu
(sinh năm 1928 ở Bà Rịa - Vũng Tàu), biệt danh Tư Cang, nguyên Chính ủy Lữ đoàn
Biệt động 316, người trực tiếp chiếm giữ, bảo vệ cầu Rạch Chiếc để xe tăng tiến
vào giải phóng Sài Gòn năm 1975 kể lại: "Điều kỳ diệu là thành phố còn
nguyên vẹn, điện nước đầy đủ. Theo tôi có được điều ấy là do nhân dân. Lòng dân
hướng về cách mạng, các đoàn thể được tổ chức chặt chẽ. Khi các cánh quân tiến
vào thì quần chúng đã đứng lên diệt ác ôn, giải phóng phường, treo cờ cách mạng.
Đó là sự chuẩn bị, gây dựng quần chúng từ mấy chục năm. Phong trào quần chúng
ví như thùng thuốc nổ, khi có ngòi nổ đủ sức công phá thì sức mạnh quần chúng
bung ra không gì cản nổi. Quân đội như chúng tôi chỉ đóng vai trò ngòi nổ đủ mạnh".
Trước giờ cáo chung,
chính quyền Sài Gòn còn tuyên truyền là quân giải phóng sẽ "dìm Sài Gòn
trong biển máu". Nhưng cuối cùng thì không có cuộc tắm máu nào như thế cả.
Ngược lại, những binh sĩ đã hạ vũ khí được tự do đi lại trên đường phố mà không
bị truy sát. Các hình ảnh do chính phóng viên ảnh và quay phim nước ngoài ghi lại
đã cho thấy nhiều người dân đã đón chào và dẫn đường cho quân giải phóng đánh
chiếm các mục tiêu trong trưa 30/4/1975 tại Sài Gòn.
Sau khi tin đầu hàng
phát đi từ Sài Gòn có năm vị tướng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tự sát vào
ngày 30 Tháng Tư, là Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ
và Trần Văn Hai.
Theo Jean Louis
Margolin, tác giả này xác nhận là không có giết chóc trong ngày quân Giải phóng
tiến vào Sài Gòn nhưng ông đã đưa ra con số 200 ngàn tù binh bị giam giữ theo
xác nhận của Phạm Văn Đồng. Ngược lại, một số quan chức Việt Nam Cộng hòa đã cộng
tác với chính phủ Cách mạng lâm thời và được giữ chức vụ trong chính phủ mới
như Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh... Khi chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra,
nhiều cựu binh sĩ VNCH đã được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam gọi tái ngũ để
giúp vận hành các loại vũ khí thu được của Mỹ.
Tom Polgar, nhân viên
cao cấp tòa Đại sứ Mỹ ở Việt Nam, một trong những người Mỹ cuối cùng di tản, đã
ghi lại cảm tưởng của mình vào ngày hôm ấy:
"Đó là một cuộc
chiến tranh (chiến tranh Việt Nam) lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất
bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc sẽ không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu
của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng... Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ
phải lặp lại sai lầm trong lịch sử".
Trong trưa ngày 30/04,
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã liên lạc với quân Giải phóng và tuyên bố trên Đài
Phát thanh Sài Gòn sau lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh:
"Hôm nay là ngày mơ ước của tất cả chúng
ta... Ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam này... Những điều
mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do, và thống nhất thì hôm nay chúng
ta đã đạt được tất cả kết quả đó... Hôm nay tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng
miền Nam Việt Nam, các bạn trẻ và Chính phủ Cách mạng lâm thời xem những kẻ ra
đi là những kẻ phản bội đất nước...Chính phủ Cách mạng lâm thời đến đây với
thái độ hòa giải, tốt đẹp. Chúng ta không có lý do gì để sợ hãi mà ra đi cả.
Đây là cơ hội duy nhất và đẹp đẽ nhất để đất nước Việt Nam được thống nhất và độc
lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước suốt mấy chục năm nay.
Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu và cũng như những người chưa quen của tôi xin ở
lại và kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách mạng lâm thời để góp tiếng nói xây dựng
miền Nam Việt Nam này..."
Trước đó, chính quyền
Sài Gòn đã tuyên truyền về một cuộc tắm máu của Việt Cộng khi Sài Gòn thất thủ.
Do đó, trong sáng 30/04, rất ít người dám ra đường mà chỉ ở trong nhà nghe
radio. Tuy nhiên, theo quan sát của các nhà báo quốc tế, tại Sài Gòn và nhiều
thành phố khác của miền Nam Việt Nam đã không hề có bất kỳ một cuộc tắm máu nào
xảy ra nhưng những gì bộ máy tuyên truyền của chính quyền Việt Nam Cộng hòa cảnh
báo. Hoàn toàn không có việc bắn giết, cướp bóc, bạo lực.
Hoạt động nổi dậy dân sự
Song song với các hoạt
động quân sự của Quân Giải phóng là hoạt động nổi dậy giành chính quyền của quần
chúng nhân dân. Phía Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã
có những hoạt động chuẩn bị để quần chúng nổi dậy ngay từ tháng 3/1975, trong
đó xác định lực lượng thanh niên là nòng cốt. Hoạt động nổi dậy sẽ diễn ra ở 05
khu vực, bao gồm:
Khu vực 1 gồm: Ngã Bảy,
Bàn Cờ, Vườn Chuối (quận 3) do lực lượng sinh viên học sinh các trường Kỹ thuật
Cao Thắng, Gia Long và cơ sở sĩ quan Việt Nam Cộng hòa do Quân Giải phóng đã thực
hiện binh vận thành công đã trở thành cở sở cách mạng.
Khu vực 2 gồm: Khánh Hội
- Xóm Chiếu thuộc quận 4 và một phần quận Nhì do lực lượng các trường đại học
Y, Nha, Dược và Nông súc sản phụ trách.
Khu vực 3 gồm Cầu Kiệu
- Võ Dung Nghiệp, ngã tư Phú Nhuận (nay là Phan Đình Phùng) do Đoàn Công tác xã
hội sinh viên học sinh Sài Gòn phụ trách.
Khu vực 4 gồm Cầu Bông
- chợ Bà Chiểu (nay là đường Đinh Tiên Hoàng) do các cơ sở của các trường nữ,
khối trung học tư thục phụ trách.
Khu vực 5 gồm vùng ven
Tân Sơn, Tân Phú, Bà Điểm thuộc quận Tân Bình do là nơi quy tụ nhiều đồng bào
công giáo nên thanh niên công giáo cùng với các sở, cha xứ... phụ trách.
Để chuẩn bị cho nổi dậy
thành công, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã lập các
chốt phòng vệ để ngăn cản lực lượng Cảnh sát Việt Nam Cộng hòa biết tin. Đặc biệt,
trước khi nổi dậy, một số lượng lớn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã được may cùng với nhiều khẩu hiệu, trong đó nội dung hướng tới là lực lượng
Việt Nam Cộng hòa cần đầu hàng ngay để hưởng khoan hồng, Chính phủ Cách mạng
lâm thời sẽ bảo đảm đầy đủ tính mạng và tài sản của người dân. Ngay sau khi Tổng
thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, không còn tiếng súng thì người dân bắt
đầu đổ ra đường. Lúc này, lực lượng thanh niên tự vệ Giải phóng nhanh chóng
giúp Quân Giải phóng tiếp quản các cơ sở chính quyền của Việt Nam Cộng hòa và ổn
định trật tự. Bên cạnh đó, người dân Sài Gòn cũng bắt đầu đổ ra đường để chào
đón, cầm cờ và dẫn đường cho Quân Giải phóng tiến về Dinh Độc Lập.
Chiến dịch Gió lốc
Chiến dịch Gió lốc là
chiến dịch của không quân Mỹ nhằm di tản bằng trực thăng người Mỹ và các quan
chức, tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa ra khỏi Sài Gòn, miền Nam Việt Nam, từ 29 đến
30 tháng 4 năm 1975, những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam. Hơn 50.000
người đã di tản từ nhiều điểm ở Sài Gòn.
Có 50.493 người (trong
đó có 2.678 trẻ mồ côi Việt Nam) được di tản từ Tân Sơn Nhất. Các phi công đã
bay tổng cộng 1.054 giờ và 682 chuyến bay trong suốt chiến dịch. Đây là chiến dịch
cuối cùng của quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Kết quả
Sự kiện 30 tháng 4 năm
1975 có vai trò rất quan trọng và lâu dài trong lịch sử Việt Nam với kết quả:
Chấm dứt Chiến tranh
Việt Nam và Chiến tranh Đông Dương, một quá trình chiến tranh hao người tốn của
kéo dài 30 năm với những thương vong, tổn thất rất lớn: khoảng 400.000 quân
nhân Mỹ và các đồng minh của Mỹ đã chết, khoảng 1,5 triệu lính khác bị thương
(trong đó riêng quân Mỹ có 58.191 chết và 304.000 bị thương). Phía Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam có gần 1 triệu quân nhân chết (trong đó 240.000 người đến
nay vẫn còn trong diện mất tích), 600.000 quân nhân bị thương. Gần 2 triệu dân
thường Việt Nam bị chết, hơn 2 triệu dân thường bị thương tật, khoảng 2 triệu
người bị phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại (ví dụ như chất độc da cam).
Kết thúc sự tồn tại của
chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Sự kiện này đã đánh dấu sự thất bại chung cuộc của
phía Hoa Kỳ, đồng minh và Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến tại Việt Nam; chấm
dứt việc các cường quốc thế giới can thiệp trực tiếp bằng quân sự vào Việt Nam
trong suốt hơn 100 năm (từ 1858 tới 1975).
Là điều kiện để thống
nhất về mặt nhà nước của Việt Nam. Thực hiện quyết định của Hội nghị Hiệp
thương chính trị của đại biểu miền Bắc và miền Nam họp ở Sài Gòn tháng 11 năm
1975, ngày 25 tháng 4 năm 1976 toàn quốc tiến hành tổng tuyển cử bầu quốc hội
chung của nước Việt Nam thống nhất. Quốc hội thống nhất họp tại Hà Nội từ ngày
24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976 đã quyết định tên nước là: Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam và đã bầu các thành viên của cơ quan chính quyền nhà nước.
Việt Nam đã bước ra khỏi chiến tranh và thực sự trở thành một quốc gia thống nhất.
Trên phương diện quốc
tế, sự chấm dứt Chiến tranh Việt Nam với thắng lợi của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đánh dấu sự thắng thế của phe Xã hội chủ nghĩa
trên thế giới trong thập niên 1970 và kết quả là một loạt các phong trào cánh tả
thắng thế hoặc lên cầm quyền ở một số nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh
hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Kết quả của cuộc chiến đã làm đảo lộn
chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ từ chỗ chủ động tấn công phe Xã hội chủ nghĩa
sang thế bị động. Điều này kéo dài tới khi Ronald Reagan lên cầm quyền và sự dè
dặt trong việc can thiệp quân sự một cách ồ ạt, quy mô lớn chỉ chính thức chấm
dứt sau Chiến tranh vùng Vịnh.
Hàng trăm nghìn binh
lính thuộc chế độ Việt Nam Cộng hòa phải học tập cải tạo trong các trại cải tạo
với thời hạn khác nhau từ vài ngày (đối với những viên chức cấp thấp, không có ảnh
hưởng trong xã hội, không có tư tưởng chống Cộng) đến 10 năm (đối với những
viên chức, sỹ quan cấp cao và có tư tưởng chống Cộng mạnh mẽ). Một trong các mục
đích của học tập cải tạo là thể hiện Chính sách khoan hồng của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Việt Nam khi họ không đưa các cựu binh đối phương ra xét xử các
tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người.[52] Đồng thời cũng để chính
quyền mới tạm thời ngăn chặn sự chống phá của các thành viên cực đoan của chế độ
cũ nhằm giữ ổn định xã hội miền Nam thời kỳ hậu chiến.[53] Sau thời gian đi học
tập cải tạo, những người này được phục hồi đầy đủ quyền công dân. Các cơ quan
công quyền có trách nhiệm tạo điều kiện để người hoàn thành học tập, cải tạo về
được lao động sản xuất để có cuộc sống ổn định lâu dài.
WIKIPEDIA
Nhận xét
Đăng nhận xét