Bài 8-NGƯỜI GIỮ CHÌA KHÓA KHO VÀNG
Bài 8
NGƯỜI GIỮ CHÌA
KHÓA
KHO VÀNG
Chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn - hiện là giám đốc đối ngoại Pepsi Co.VN - Ảnh: T.T.D.
Người giữ chìa khóa kho vàng
lúc đó là ông Huỳnh Bửu Sơn - làm việc trong ban lãnh đạo Nha Phát hành Ngân
hàng Quốc gia. Dưới đây là hồi ức của ông về cuộc kiểm kê kho vàng lần cuối
cùng trước khi bàn giao cho chính quyền cách mạng.
Khi lịch sử sang trang Sài
Gòn ngày 30-4-1975. Đó là những giờ phút mà sau này tôi mới thấy hết ý nghĩa trọng
đại của nó đối với lịch sử dân tộc, nhưng vào lúc đó tôi vẫn còn chưa hết bàng
hoàng.
Những ngày đầu tháng 5-1975,
tôi vào trình diện tại Ngân hàng Quốc gia ở 17 Bến Chương Dương cùng các đồng
nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người.
Chúng tôi được lệnh của Ban
Quân quản Ngân hàng Quốc gia là chờ phân công tác. Trong khi chờ đợi, mỗi ngày
mọi người đều phải có mặt tại cơ quan.
Phải nói đó là những ngày rất
thảnh thơi đối với tất cả anh em chúng tôi, hầu hết ở độ tuổi trên dưới ba
mươi.
Chúng tôi vui vẻ, yên tâm.
Thái độ của các anh cán bộ trong Ban Quân quản rất lịch sự, đúng mực nhưng khá
xa cách.
Vào thời điểm đó, nhiều người
trong chúng tôi chưa nghĩ đến tương lai như thế nào. Mong muốn của tôi cũng như
những người khác vào lúc đó là an ninh trật tự sẽ được vãn hồi, mỗi người sẽ có
một vị trí làm việc trong chế độ mới và tiếp tục đóng góp theo khả năng của
mình cho xứ sở.
Cuối tháng 5-1975, chúng tôi
được lệnh trình diện tập trung đi học tập cải tạo tại Trường nữ trung học Gia
Long (bây giờ là Trường Nguyễn Thị Minh Khai).
Nhóm viên chức Ngân hàng Quốc
gia được xếp vào mấy tổ, tôi thuộc tổ 32. Trong ba ngày tập trung tại Trường
Gia Long, chúng tôi được phục vụ ăn uống khá chu đáo.
Chiều ngày thứ ba, sau khi
dùng cơm chiều xong, vào khoảng 6 giờ, loa phóng thanh đọc danh sách những người
phải thu dọn đồ đạc và tập trung tại sân cờ nghe lệnh. Tên tôi có trong danh
sách đó.
Lúc đó tôi cảm thấy rất lo lắng,
không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra, nhất là khi thấy danh sách người được gọi tên
chiếm không đến 10% sĩ số.
Nhưng khi đến tập trung tại
sân cờ, tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe ban chỉ huy trại thông báo là do số người
trình diện quá đông nên một số được cho về nhà vào tối đó, hôm sau đến để nhận
giấy tờ tùy thân và trình diện cơ quan đang công tác, chờ lệnh tập trung mới. Bảy
giờ sáng hôm sau, tôi quay trở lại Trường Gia Long, thấy ngôi trường vắng lặng
như tờ.
Như vậy là trong đêm trước mọi
người đã di chuyển. Một lần nữa số mệnh đã cho tôi ở lại. Tôi đến trình diện tại
Ngân hàng Quốc gia và được phân công tác tại Vụ Phát hành và kho quĩ.
Những ngày tiếp theo, Ban
Quân quản tổ chức học tập tại chỗ ba ngày cho các viên chức ở lại và cấp giấy
chứng nhận học tập cải tạo. Lúc đó, giấy chứng nhận này chính là một lá bùa hộ
mệnh.
Sau này, vào cuối tháng tám,
khi có lệnh gọi tập trung lần thứ hai cho những người được trả về đợt trước,
tôi có đến gặp và hỏi ý kiến anh Ba Sáng, cán bộ Ban Quân quản. Sau khi tham khảo
ý kiến Ban Quân quản, anh thông báo cho tôi biết trường hợp của tôi đã được Ban
Quân quản xem xét, tôi được bố trí tham gia chiến dịch đổi tiền Sài Gòn cũ và cải
tạo tư sản nên không phải đi trình diện học tập tập trung.
Lần kiểm kê cuối cùng
Vào đầu tháng 6-1975, tôi được
lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia tiến hành kiểm kê kho tiền và vàng của
chế độ cũ, các kho tiền và vàng của Ngân hàng Quốc gia thuộc quyền quản lý của
Nha Phát hành, nơi tôi làm việc trong ban lãnh đạo từ năm 1970 với tư cách là
kiểm soát viên. Anh giám đốc Nha Phát hành đã đi cải tạo tập trung, do đó trong
số người còn ở lại chỉ có tôi là người giữ chìa khóa và anh Lê Minh Kiêm -
chánh sự vụ - là người giữ mã số của các hầm bạc.
Việc kiểm kê kho tiền và
vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng tháng, hằng năm nên cảm thấy không
có gì đặc biệt. Chỉ có một điều là tôi biết lần kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm
kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới.
Tôi không lo âu gì cả vì biết chắc rằng số tiền và vàng nằm trong kho sẽ khớp
đúng với sổ sách.
Trong những ngày hỗn loạn,
các hầm bạc của Ngân hàng Quốc gia vẫn được chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối
an toàn.
Cần nói thêm là các hầm bạc
được xây rất kiên cố với hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm
bằng thép có hai ổ khóa và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng
trên 1 tấn.
Đại diện Ban Quân quản là một
cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt quá trình kiểm kê
là một anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất thân thiện.
Anh hay nắm tay tôi khi trò
chuyện. Sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt - chỉ huy phó đơn vị
tiếp quản Ngân hàng Quốc gia.
Số vàng đúc lưu giữ tại kho
của Ngân hàng Quốc gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng
nguyên chất.
Có ba loại vàng thoi: vàng
thoi mua của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED); vàng thoi mua của một công ty đúc
vàng ở Nam Phi - Công ty Montagu; và vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm
vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua
biên giới, phần lớn từ Lào.
Tất cả những thoi vàng đều
là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu
và tuổi vàng (thường là 9997, 9998).
Các thoi vàng được cất trong
những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp
khoảng năm, sáu thoi vàng.
Nhưng qua năm tháng, bị nặng
trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.
Các đồng tiền vàng được giữ
trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại,
được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau...
Ngoài giá trị của vàng
nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần
giá trị vàng nội tại của nó.
Tất cả số vàng thoi và tiền
vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng
ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng
tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho.
Chúng tôi thực hiện công tác
kiểm kê trong hai ngày liền. Thật ra công việc cũng khá đơn giản. Số giấy bạc dự
trữ giữ trong các thùng bằng gỗ thông được niền bằng đai sắt và niêm chì, mỗi
thùng ghi rõ mệnh giá, loại giấy bạc, số lượng.
Do đó chỉ cần kiểm kê số lượng
thùng bạc, các chi tiết tương ứng và đối chiếu với sổ sách được điện toán hóa
là biết khớp đúng ngay.
Lúc đó, loại giấy bạc mệnh
giá cao nhất chỉ có 1.000 đồng, thuộc xêri mới phát hành, có in hình các con
thú hoang dã trong rừng rậm Việt Nam.
Ngoài ra vẫn còn tồn kho và
tiếp tục phát hành loại giấy bạc nổi tiếng có in hình danh tướng Trần Hưng Đạo,
mệnh giá 500 đồng. Tổng giá trị giấy bạc dự trữ trong kho lúc đó (nếu tôi nhớ
không lầm) khoảng hơn 1.000 tỉ đồng, gấp đôi lượng tiền lưu hành tại miền Nam
vào thời điểm giải phóng.
Chỉ trong một buổi sáng,
chúng tôi đã kiểm kê xong số lượng giấy bạc dự trữ. Việc kiểm kê số vàng chiếm
nhiều thời gian hơn vì phải kiểm kê từng thoi vàng một để xem trọng lượng, tuổi
vàng và số hiệu có khớp đúng với sổ sách hay không.
Cuộc kiểm kê kết thúc, ai nấy
đều vui vẻ thấy số lượng tiền vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách từng chi tiết
nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Việc bàn giao tài sản
quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất. Sau chiến tranh, ít nhất đất nước
cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt đầu xây dựng lại. Về phía chúng
tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách quản lý nghiêm túc của những người
đã từng làm việc tại Ngân hàng Quốc gia.
Bảng kê thoi vàng đựng trong các tủ sắt
Hầm số 3
Tủ số 40: 82 thoi
Tủ số 41: 80 thoi
Tủ số 42: 80 thoi
Tủ số 43: 80 thoi
Tủ số 44: 80 thoi
Tủ số 45: 80 thoi
Tủ số 46: 80 thoi
Tủ số 47: 73 thoi
633 thoi
Hầm số 6
Tủ số 202: 35 thoi
Tủ số 203: 80 thoi
Tủ số 204: 80 thoi
Tủ số 205: 80 thoi
Tủ số 206: 79 thoi
Tủ số 207: 89 thoi
Tủ số 215: 88 thoi
Tủ số 216: 70 thoi
601 thoi
Tổng cộng: 1.234 thoi vàng
(Nguồn: Nha Phát hành, tháng
4-1975)
----------------------------------------------------------------------------------------------
Bài viết của tác giả Huỳnh Bửu
Sơn trên tờ Tuổi Trẻ trích đoạn như sau:
“…Những ngày đầu Tháng Năm, 1975, tôi vào trình diện tại Ngân Hàng Quốc Gia
ở 17 Bến Chương Dương, thủ đô Sài Gòn cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng
một vài người. Chúng tôi được lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia là chờ
phân công tác. Trong khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ
quan.
Lần kiểm kê cuối cùng… Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm
thường xuyên hằng tháng, hằng năm nên cảm thấy không có gì đặc biệt. Chỉ có một
điều là tôi biết lần kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với
tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới. Tôi không lo âu gì
cả vì biết chắc rằng số tiền và vàng nằm trong kho sẽ khớp đúng với sổ sách.
Trong những ngày hỗn loạn, các hầm bạc của Ngân Hàng Quốc Gia vẫn được
chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được
xây rất kiên cố với hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng
thép có hai ổ khóa và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng trên 1
tấn.
Đại diện Ban Quân Quản là một cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với
ông trong suốt quá trình kiểm kê là một anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp
trai và rất thân thiện. Anh hay nắm tay tôi khi trò chuyện. Sau này tôi mới biết
tên anh là Hoàng Minh Duyệt – chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân Hàng Quốc Gia.
Số vàng đúc lưu giữ tại kho của Ngân Hàng Quốc Gia vào thời điểm đó gồm
vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi: vàng thoi
mua của Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (FED); vàng thoi mua của một công ty đúc vàng ở
Nam Phi – Công ty Montagu; và vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim
Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới,
phần lớn từ Lào.
Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên
mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng
được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng
thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng
trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.
Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những
đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều
quốc gia khác nhau… Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn
được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất
cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu,
tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán (computer) của
ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay
đổi xuất nhập tồn kho. Kết thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền và vàng
kiểm kê đều khớp với sổ sách điện toán từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản
kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho chính quyền
mới đã hoàn tất. Sau chiến tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù
khiêm tốn, để bắt đầu xây dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh
một cung cách quản lý nghiêm túc của những người đã từng làm việc tại Ngân Hàng
Quốc Gia…”
Tác giả Huỳnh Bửu Sơn cũng
liệt kê từng tủ và từng hầm kho tàng. Và cuối bài viết, ông ghi: “Tổng cộng:
1.234 thoi vàng.”
TUỔI TRẺ
Nhận xét
Đăng nhận xét