TRẠNG NGUYÊN CUỐI CÙNG TRỊNH HUỆ
TRẠNG NGUYÊN CUỐI CÙNG
TRỊNH HUỆ
Trong lịch sử khoa bảng
Việt Nam từ năm 1075 đến năm 1919, nếu Trạng nguyên đầu tiên Lê Văn Thịnh
(1075) có công lớn đòi lại được vùng đất 6 Huyện và 3 Động, thì Trạng nguyên cuối
cùng Trịnh Huệ (1736) là một nhân tài đáng kinh ngạc, khiến lắm kẻ ban đầu dị
nghị nhưng sau cùng cũng chỉ có thể tâm phục khẩu phục.
Dòng dõi nhà Chúa
Theo ghi chép từ sách
“Kim Giám Thực Lục” (1802) và “Kim Giám Tục Biên” (1869) thì Trịnh Huệ là cháu
5 đời của chúa Trịnh Tùng, thuộc dòng của Thuần Nghĩa Công Trịnh Dương. Tuy vậy
gia cảnh của ông rất nghèo, đến đời bố ông thì phải rời nơi sinh sống từ xã Sóc
Sơn (huyện Vĩnh Phúc, tỉnh Thanh Hóa) đến bãi Cồn Thần (nay là phần đất tại hai
trường THCS Nguyễn Du và trường THPT Quảng Xương I).
Nhưng cuộc sống vẫn
khó khăn tứ bề khiến bố ông phải chuyển đến làng Ngọc Am, xã Bất Quần (nay là
xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa) để sinh sống. Tại đây bố ông
đã gặp và nên duyên với một thôn nữ vừa đẹp người vừa đẹp nết. Hai người kết
hôn và sinh được một nhân tài hiếm có đó chính là Trịnh Huệ.
Thần đồng hiếm có từ
nhỏ
Theo “Trịnh Vương ngọc
phả” thì Trịnh Huệ thuở nhỏ rất thông minh và chịu khó học hành, liếc mắt qua một
lượt thuộc ngay mười hàng chữ, chục năm sau có thể đọc lại vanh vách.
Năm 1723 Trịnh Huệ thi
Hương và đỗ ngay Hương cống (tức đỗ đầu), được chúa Trịnh Giang mời vào cung
Tân Nhân giao cho chức phó Tri Hình Phiên.
Tại khoa thi năm Bính
Thìn (1736), ông đỗ đầu kỳ thi Hội, vào đến thi Đình ông cũng lại đỗ đầu, trở
thành Trạng nguyên.
Tại Văn Miếu Hà Nội
ngày nay vẫn còn bia tiến sĩ khoa thi năm Bính Thìn (1736), bia có đề rằng:
Cho đỗ đệ nhất giáp tiến
sĩ cập đệ, đệ nhất danh: Trịnh Huệ, làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc, trú quán xã
Bất Quần, huyện Quảng Xương… Ra lệnh khắc tên vào đá để truyền mãi mai sau.
Sau năm 1736, dù các kỳ
thi khoa bảng vẫn còn nhưng ngôi Trạng nguyên không còn có ai nữa.
Sau khi đỗ Trạng
nguyên, Trịnh Huệ được phong Đông các đại học sĩ, rồi lên tới chức Tham tụng
Thượng thư bộ Hình (tước Quận Công) tức ngang với chức Tể Tướng trong triều.
Năm 1740, Phủ Chúa có
biến, chúa Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang, Trịnh Huệ bị nghi ngờ theo phe của
Hoàng Công Phụ nên bị bắt giam để điều tra. Tuy nhiên nhận thấy ông vô tội nên
chúa tha và phong làm Tế Tửu Quốc tử giám. (Về biến cố của Phủ Chúa, xem bài:
“Làm ác gặp ác báo”: Vị Chúa trong sử Việt phải chui nhủi dưới hầm suốt 20 năm
cuối đời)
Trạng nguyên mở lòng:
“Ai có câu hỏi gì khó… xin trả lời hết”
Nhìn lại, con đường hoạn
lộ của Trịnh Huệ tiến nhanh, nhưng vì ông là con cháu nhà Chúa nên nhiều người
dị nghị tỏ ra không phục. Thậm chí nhiều người cho rằng việc đỗ Trạng nguyên của
ông cũng do là người của nhà Chúa.
Trong dân gian lưu
truyền câu chuyện như một giai thoại, kể rằng nghe được những lời dị nghị này
Trịnh Huệ bèn nói:
Tôi đã nhất Tam khôi
mà nói là do Vương phủ thiên vị thì còn gọi gì là văn chương nữa! Nay để khỏi
nghi ngờ, trong triều ngoài nội ai có câu hỏi gì khó ở bất cứ sách vở nào về
kinh sử, tả truyện, ý nho, lý số thì đem đến tôi xin trả lời hết!
Lập tức nhiều người
không phục đến chất vất thử tài nhằm đưa ông vào thế bí để bêu rếu khắp nơi. Biết
ông đương nhiên hiểu việc trong nước, nên nhiều người hỏi sách vở Trung Hoa. Trịnh
Huệ đều rất tỏ tường khiến không ai tìm ra điểm yếu.
Họ quay lại hỏi các vấn
đề trong nước nhưng cũng không sao bắt bí được, các vấn đề ông đều trả lời
thông suốt.
(Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa
trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằngtranh”)
Thế nhưng không ai muốn
thua cuộc và thừa nhận tài năng của ông một cách dễ dàng. Để ông lâm vào thế
bí, một người đã hỏi rằng:
Chiếc đũa là vật
thiêng không có chân, lúc thì gãy, lúc thì mất. Vậy nó chạy đi đâu, ở trong
kinh điển nào?
Thế nhưng ông vẫn mỉm
cười, dáng đứng khoan thai đọc hai câu thơ của vua Lê Thánh Tông:
Trời còn giành để An
Nam mượn
Vạch chước bình Ngô
mãi mới vừa.
Rồi ông nói:
Đó chẳng phải là câu
thơ của Lê Thánh Tông bản Triều vịnh núi Chiếc Đũa, nơi khởi phát đế nghiệp mở
ra công cuộc bình Ngô của nước ta hay sao? Núi Chiếc Đũa không có chân mà chạy
về góc đó.
Quả là ở Thanh Hóa,
nơi của biển Thần Phù, nay thuộc địa phận làng Văn Đức, xã Nga Phú, huyện Nga
Sơn có ngọn núi đứng một mình tên chữ là “Chính Trợ Sơn” gọi nôm là núi Chiếc
Đũa, đã có tên trong sách vở. Xưa nhiều vị Vua Chúa đi qua đều có vịnh thơ ca
ngợi cảnh đẹp nơi đây.
Lúc này mọi người cũng
chẳng còn gì để hỏi ông nữa cả, chỉ còn có thể tâm phục khẩu phục tài học của
ông.
Dạy học miễn phí cho
người dân
Sau này khi nghỉ hưu
Trịnh Huệ về nhà ở thôn Thọ Sơn, xã Bất Quần ở chân núi Voi. Tương truyền xưa
khi bà Triệu thua trận, những con voi chạy tán loạn, trong đó con voi đầu đàn
đã chạy đến vùng này thì hóa đá tạo thành dãy núi. Người dân nơi đây thấy con vật
linh thiêng liền gọi dãy núi này là núi Voi.
Khi Trạng nguyên Trịnh
Huệ về đây dạy học, ông bỏ tiền thuê người xây dựng nhà để người dân tới học chữ.
Đặc biệt ông dạy học không phân biệt giàu nghèo, trai gái hay tuổi tác, ai có
tâm muốn học là ông dạy, và ông cũng dạy hoàn tiền miễn phí, không thu tiền của
người dân.
Vì thế người dân trong
vùng cũng có người thân mật gọi ông là Trạng Voi.
Chùa Voi, nơi đây xưa kia là nhà của
Trạng nguyên Trịnh Huệ dùng để dạy học miễn phí cho người dân. (Ảnh từ báo Thanh
Hóa)
Ngôi nhà năm xưa Trạng
nguyên Trịnh Huệ dùng để dạy học đến nay không còn nữa, vị trí ngôi nhà được
thay thế bằng ngôi chùa Voi khang trang. Bên cạnh ngôi chùa vẫn còn đó hai chiếc
cột đá, vốn là vật dụng mà khi xưa Trịnh Huệ dùng để treo kẻng, mỗi khi đến giờ
ông liền gõ kẻng để học trò vào lớp.
Trong số các học trò của
ông có nhiều người đỗ cao và làm quan. Khi ông mất các học trò của ông đã cho
xây nhà thờ để thờ phụng người thầy đáng kính của mình.
Tấm biển đá “Trạng Nguyên từ”. (Ảnh
từ báo Thanh Hóa)
Lê Quý Đôn khi còn làm
đốc học ở Thanh Hóa đã đến thăm đền thờ Trịnh Huệ, ông đã quyên góp tiền để tu
sửa lại rồi khắc biển treo trước đền là “Trạng nguyên từ” để người đời ngàn năm
ghi nhớ.
Phong cảnh nơi đây hữu tình, vua Tự
Đức đã làm thơ tạc trên núi. (Ảnh từ kienthuc.net.vn)
Đến thời vua Tự Đức, một
lần nhà Vua đi qua dãy núi hình con voi đồ sộ, dưới chân núi là dòng sông thơ mộng,
nhà vua cảm hứng mà làm một bài thơ, không chỉ ca ngợi cảnh đẹp mà còn nói lên
đức độ của Trạng nguyên Trịnh Huệ, rồi yêu cầu Tổng đốc Thanh Hóa lên đỉnh núi
Voi để khắc ghi.
Trần Hưng
Nhận xét
Đăng nhận xét