XUẤT CUNG
"XUẤT CUNG" LÀ GÌ?
Thẻ
"Xuất cung - Ảnh: 中華網
Bài thơ "Hạn chế" 限制 (Ngục trung nhật ký"-Hồ
Chí Minh) có hai câu đầu như sau:
"Một hữu tự do chân thống khổ,
Xuất cung dã bị nhân chế tài"
(没 有 自 由 真 痛 苦
出 恭 也 被 人 制 栽)
Nam
Trân dịch:
"Đau khổ chi bằng mất tự do,
Đến buồn đi ỉa cũng không cho"
"Đau khổ chi bằng mất tự do,
Đến buồn đi ỉa cũng không cho"
("Nhật ký trong tù"-NXB Văn hóa, Viện văn học-1960)
Sách "Nhật ký trong
tù-chú thích và thư pháp" (NXB Chính trị Quốc gia-2005), tác giả, GS
Hoàng Tranh (Viện khoa học xã hội Quảng Tây-Trung Quốc) chú thích: “Hai chữ
xuất cung (出恭), tiếng
Quảng Đông có nghĩa là đi ngoài”.
"Chuyên gia số 1 về thơ
Bác"-Ông Lê Xuân Đức trong sách "Nhật ký trong tù và lời
bình" (NXB Văn học-2013) căn cứ chú thích của GS Hoàng Tranh
đã “bình” như sau:
“Những từ Hán-Việt nôm na mách qué, theo quan niệm truyền thống, đặc biệt thơ cổ là tối kỵ, uế tạp, nhưng với Bác, giản dị đã trở thành bản lĩnh...”
“Những từ Hán-Việt nôm na mách qué, theo quan niệm truyền thống, đặc biệt thơ cổ là tối kỵ, uế tạp, nhưng với Bác, giản dị đã trở thành bản lĩnh...”
Vậy, có đúng "xuất
cung 出恭" là "tiếng
Quảng Đông" theo kiểu "nôm na mách qué", là "tối
kỵ, uế tạp" không? Tại sao “xuất cung” 出恭 (chữ cung 恭 trong cung kính) lại được
đem dùng để nói một việc chẳng ăn nhập gì là "đi ị"?
Theo "Hán điển"(漢典), từ “xuất cung” 出恭 vốn sinh ra từ chốn trường
thi (đời nhà Nguyên bên Tàu). Vào trường thi, sĩ tử làm bài kéo dài tới cả ngày
trời, nên phải đem theo thức ăn, nước uống, tự phục vụ tại chỗ. Riêng việc đại
tiện, tiểu tiện, để tránh thí sinh tự ý đi lại, rời vị trí ngồi, gian lận tài
liệu, trường thi quy định phải “xuất cung, nhập kính” (出恭, 入敬). Tức ra, vào đều phải có phép tắc. Muốn
đi nhà xí, trước tiên sĩ tử phải xin phép và lĩnh tấm thẻ có chữ “xuất
cung” (“出恭”牌) mới được đi. Do vậy, người ta
gọi đi nhà xí là “xuất cung” (出恭). Lại gọi đại tiện là “xuất đại cung” (出大恭), tiểu tiện là “xuất tiểu
cung” (出小恭). Về
sau, "xuất cung" không chỉ được dùng trong trường thi, mà trở
thành một từ phổ thông trong tiếng Hán, cách nói tránh tế nhị, chỉ việc đi đại
tiện, nhà xí (nói chung).
Trong “Tây du ký” (Ngô
Thừa Ân) đoạn Trư Bát Giới khoe khoang, mắng nhiếc Huỳnh Bào rồi cùng Sa Tăng
nhảy vào giao chiến. Đánh tới 90 hiệp, Bát Giới đã mệt lử, Sa Tăng cũng hết hơi
mà không thắng nổi. Có nguy cơ bại trận, Bát Giới mới nói lừa Sa Tăng: “Sa
Tăng! Hiền đệ cố sức cầm cự, để Lão Trư "đi ngoài"cái
đã”. (Sa Tăng! Nhĩ thả thượng tiền lai, dữ tha đấu trước, nhượng Lão
Trư xuất cung lai - 沙僧,你且上前来与他斗着, 讓老猪 出恭来). Sa
Tăng tin lời Bát Giới, đem hết sức ra đánh. Chẳng ngờ Bát Giới chạy xa, tìm chỗ
mát nằm ngáy khò khò. Còn Sa Tăng đợi Bát Giới hết hơi, một mình đánh không lại,
bị Huỳnh Bào bắt sống trói gô lại.
Tiếng Việt cũng có từ “đi
ngoài” để chỉ “đại tiện”. Chưa biết "đi ngoài" có mối
quan hệ gì với "xuất cung" hay không, nhưng "Từ điển
Hán-Việt" (Vương Trúc Nhân-Lữ Thế Hoàng-NXB Văn hóa thông tin-2007)
và "Từ điển Việt -Hán" (GS Đinh Gia Khánh hiệu đính-NXB
Giáo dục-2003); "Từ điển Hán-Việt" (Phan Văn Các chủ
biên-NXB Từ điển bách khoa-2014) đều ghi nhận "xuất cung" (出恭) trong tiếng Hán (phổ thông) đồng
nghĩa với "đi ngoài" hoặc "đại tiện" trong tiếng Việt
(Hoàng Phê trong "Từ điển tiếng Việt" gọi là "lối nói
kiêng tránh").
Như vậy, “xuất cung” 出恭 không phải là “tiếng Quảng
Đông” như GS Hoàng Tranh chú thích. Và dĩ nhiên, tác giả "Ngục
trung nhật ký" cũng không hề “nôm na, mách qué”, không hề "tối
kỵ, uế tạp" khi đưa "xuất cung" vào thơ, như
ông Lê Xuân Đức bình. Ngược lại, Hồ Chí Minh nói chữ đó!
Hoàng Tuấn Công
30/10/2015
Nhận xét
Đăng nhận xét