TÁI BẢN SÁCH “TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT CỦA GS NGUYỄN LÂN -P1
TÁI BẢN SÁCH “TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT
CỦA GS NGUYỄN LÂN
-PHÊ BÌNH VÀ KHẢO CỨU”
Bản
in 2018
Năm 2018, sách “Từ điển tiếng Việt
của GS. Nguyễn Lân-Phê bình và khảo cứu” (Hoàng Tuấn Công) tiếp tục được Nhà xuất
bản Hội nhà văn và Công ty sách Phương Nam tái bản lần thứ 1 có bổ sung, sửa chữa
(sau khi in 3 lần năm 2017). Bản 2018 bổ sung thêm gần 100 trang so với bản in
năm 2017 (bản in 2017 có 561 trang, bản 2018 có 656 trang). Sách in 1.500 cuốn,
khổ 26x24, giấy trắng và tốt hơn bản 2017, bìa được trình bày lại, và cán láng.
Nội dung bổ sung đáng chú ý
trong bản in 2018 gồm có:
1-
So sánh, trích dẫn cụ thể những
sai sót mà GS. Nguyễn Lân đã chép lại từ cuốn từ điển này (in trước) sang cuốn
từ điển khác (in sau), thay vì chỉ ghi chú “sai giống từ điển Từ và ngữ Việt
Nam”, hoặc “sai giống Từ điển từ và ngữ Hán Việt” như bản in 2017 trước đây.
Nếu một mục từ nào đó, “Từ
điển từ và ngữ Việt Nam” của GS. Nguyễn Lân có sửa chữa, bổ sung so với cuốn “Từ
điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam”, cũng sẽ được so sánh, phân tích, để thấy
việc sửa chữa ấy đúng hay sai. Nội dung này nằm rải rác trong các phần của cuốn
sách.
2-
Bổ sung thêm những sai sót mới
phát hiện trong từ điển của GS. Nguyễn Lân. Nội dung này nằm rải rác trong nhiều
phần của cuốn sách.
3-
Cập nhật trao đổi: Sau khi sách
xuất bản (2017), có nhiều ý kiến trao đổi, góp ý, phê bình cụ thể cho các mục từ.
Trong bản in 2018, tác giả Hoàng Tuấn Công đã trao đổi lại và cập nhật, tích hợp
vào cuốn sách, mục đích để bạn đọc hiểu rõ hơn vấn đề. Tuy nhiên, do phía đối
tác e ngại sách tăng trang quá nhiều, nên tác giả HTC cũng chỉ cập nhật được một
phần nhỏ những ý kiến trao đổi này.
4-
Bổ sung thêm mục mới: Tiểu mục 7
“Cách vận dụng từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ của GS. Nguyễn Lân” được viết mới và
bổ sung vào mục “Tiếng mẹ đẻ”. Đây là nội dung bổ sung nhiều nhất, với tổng số
27 trang in (từ trang 587 đến trang 614).
5-
Sửa chữa một số lỗi trích dẫn, lỗi
văn bản trong bản in 2017 (phần này chiếm tỉ lệ không đáng kể).
---------------------------------
Sau đây, chúng tôi xin trích phần
đầu của tiểu mục 7 mới bổ sung, thuộc mục “Tiếng mẹ đẻ”:
7.
Cách vận dụng từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ của GS. Nguyễn Lân.
GS. Nguyễn Lân rất coi trọng phần
ví dụ về cách vận dụng từ ngữ, thành ngữ tục ngữ trong từ điển. Trong “Đôi lời
tâm sự thay lời tựa” (Từ điển từ và ngữ Việt Nam), GS. Nguyễn Lân viết: “Từ
ngày “Từ điển tiếng Việt” (do Văn Tân chủ biên, xuất bản năm 1967, GS.
Nguyễn Lân là thành viên ban biên soạn-HTC)của chúng tôi ra đời, càng ngày
chúng tôi càng thấy sách đó còn thiếu nhiều từ và không cập nhật, nhiều từ lại
không có thí dụ, mặc dầu anh em đều nhớ lời một học giả Pháp đã nói là một
quyển từ điển không có thí dụ chỉ là một bộ xương” (HTC nhấn mạnh).
Theo đó, ông cho biết: “Khác với
quyển từ điển cũ của chúng tôi, trong quyển này, chỉ trừ các từ tục, còn tất
cả các từ và các ngữ đều có thí dụ. Một phần lớn các thí dụ đó, tôi đã lấy
trong các tác phẩm văn học từ xưa đến nay và nhất là trong lời văn của chủ tịch
Hồ Chí Minh”.
Trong sách “Trí thức tinh hoa Việt
Nam đương đại, một số chân dung” (Hàm Châu-NXB Trẻ, 2014), GS. Nguyễn Lân cũng
khẳng định, ví dụ là một phần quan trọng trong Từ điển từ và ngữ Việt
Nam: “để bạn đọc hiểu màu sắc, âm hưởng, khả năng biểu cảm của từ, ở mỗi mục
từ, tôi còn đưa vào những câu ca dao, tục ngữ có liên quan đến từ đó, cũng như
những cách dùng từ rất tài tình, sáng tạo của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng cổ,
kim, chứ không tự nghĩ ra các thí dụ vụng về”. (HTC nhấn mạnh).
Thực tế cho thấy, GS. Nguyễn Lân
đã cố gắng trích dẫn ví dụ trong các tác phẩm văn học từ cổ chí kim, để làm rõ
thêm nghĩa và làm mẫu cho người sử dụng từ điển vận dụng từ ngữ. Với những từ
ngữ không tìm được nguồn để trích dẫn, soạn giả đã tự đặt ra ví dụ để minh hoạ
(GS. Nguyễn Lân nói “không tự nghĩ ra các thí dụ vụng về” là không đúng). Đó là
việc làm hoàn toàn bình thường và cần thiết. Điều không bình thường ở chỗ, ông
đã không bám sát vào thực tế đời sống ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói hàng ngày của
nhân dân để đặt nên ví dụ. Ngược lại, nhiều ví dụ GS. Nguyễn Lân đưa ra cốt cho
xong chuyện, quá chung chung, hoặc không đúng với sự tình, thậm chí là được đặt
ra để hợp lý hoá cách giảng sai trong phần giải nghĩa từ vựng của soạn giả.
Bản
in 2018
Sau đây, chúng tôi xin đưa ra một
số phân tích và dẫn chứng. Một số ví dụ trong các tác phẩm văn học, chúng tôi
dùng làm ngữ liệu để chứng minh cho cách vận dụng đúng thành ngữ tục ngữ trong
phần này, là trích dẫn theo “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam trong hành chức”
và “Thành ngữ tiếng Việt” của Nhóm Nguyễn Lực-Lương Văn Đang (NXB Khoa Học Xã Hội-1978):
o “anh mù dạy
anh loà • ng.
Cùng dốt như nhau mà lại dạy
nhau <> Người hướng dẫn đã khiêm tốn nói: Tôi trình bày với các đồng
chí, chẳng qua chỉ là anh mù dạy anh loà”.
Viết đúng phải là “anh mù dẫn anh
loà”, chứ không phải “anh mù dạy anh loà”. Anh mù và anh loà chỉ
không nhìn thấy đường đi, chứ không hẳn là dốt. Theo đó, “anh mù dạy anh
loà” là chuyện hoàn toàn bình thường. Thậm chí, nếu là truyền đạt kinh nghiệm
(mà chỉ những người cùng bị khiếm thị mới hiểu rõ), thì “anh mù dạy anh
loà” còn tốt hơn so với người bình thường.
“Anh mù dẫn anh loà”
có nghĩa anh loà đã không thấy gì, người dẫn đường cho anh loà lại
là một anh mù, sẽ chẳng giúp gì được cho nhau. Mặt khác, người hướng dẫn
“khiêm tốn”, có thể tự ví mình như “anh mù”, nhưng lại xem người được mình hướng
dẫn giống như “anh loà”, thì khác nào chửi thẳng vào mặt người ta!
Bản
in lần thứ 3, năm 2017
o “ăn cắp giật • đgt.
Nói kẻ cắp giật một thứ gì đeo
trên người đi đường <>Một đứa đi xe máy ăn cắp giật cái dây chuyền trên cổ
chị ấy”.
Soạn giả sai ngay từ công đoạn lựa
chọn mục từ, dẫn đến ví dụ về cách dùng hoàn toàn xa lạ trong tiếng Việt.
Đã gọi là “ăn cắp” (lấy một
cách lén lút, vụng trộm, không cho ai biết) sao lại còn gọi là “ăn cắp giật”? Cứ
theo cách giảng của soạn giả, thì một thằng “kẻ cắp”, nó “giật một thứ gì đeo
trên người đi đường” nên gọi là “ăn cắp giật” chăng? Nhưng, “cướp giật”, “giết
người cướp của” hay “trộm cắp”, “móc túi”, “lừa đảo” là căn cứ vào hành vi cụ
thể để định danh, chứ không ai “tích hợp” cả lí lịch, nghề nghiệp trước đó rồi
đặt thành tội danh như soạn giả. Theo đó, hành động mà soạn giả mô tả, gọi là
“cướp giật”, tức ngang nhiên giật lấy, cướp lấy tiền bạc, tài sản của người
khác mới đúng.
o “ba ba ấp
bóng • ng.
(ba ba đẻ trứng trên cạn và vùi
dưới cát, không ấp như gà) Làm một việc chẳng có ích lợi gì <> Nó
quyết tâm ra đi, anh có khuyên nó cũng chỉ là ba ba ấp bóng”.
Quả tình, “ba ba đẻ trứng trên cạn
và vùi dưới cát, không ấp như gà”. Theo đó, nhờ hơi nóng trong cát, khoảng
50-60 ngày sau (tuỳ điều kiện nhiệt độ) trứng ba ba sẽ nở thành con. Dù không
phải ấp trứng, nhưng sau khi đẻ trứng (vào ban đêm) và vùi trứng xuống cát,
theo bản năng, hàng ngày ba ba (bố mẹ) vẫn lên bờ nằm hàng giờ liền phơi nắng
và bảo vệ bảo vệ ổ trứng. Dân gian quan sát thấy hiện tượng này và cho rằng, ba
ba “ngờ ngệch”, lên “ấp bóng” (ấp mà không có trứng) và đặt nên thành ngữ “ba
ba ấp bóng”, ám chỉ hành động việc làm ảo tưởng, tự huyễn hoặc chính
mình (không phải “làm một việc chẳng có ích lợi gì” như GS. Nguyễn
Lân giảng). Bởi vậy, không có lí do gì đem thành ngữ này ra để so sánh với lời
khuyên của người này, đối với người khác (trong tình huống người
khác đã quyết tâm ra đi).
o “bãi tha ma •
dt.
Nơi có nhiều mồ mả ở giữa cánh đồng
<> Nơi nào có nghĩa trang thì không còn bãi tha ma”.
Trong thực tế không hề có quy luật
“nơi nào có nghĩa trang thì không còn bãi tha ma”, bởi người ta xây dựng khu
nghĩa trang mới, nhưng bãi tha ma (cũ) vẫn được giữ nguyên (ngay bên cạnh) là
chuyện bình thường.
o “bất học diện tường •
ng.
(H. diện: mặt; tường: cái tường)
Không có học như đứng trước bức tường <> Tránh cái cảnh bất học diện
tường cho đồng bào”.
“Bất học diện tường” 不學面墻 có nghĩa: không học thì chẳng khác nào người đứng
trước bức tường (không học thì không biết gì). Theo đó, ví dụ “Tránh cái cảnh
bất học diện tường cho đồng bào” của GS. Nguyễn Lân được hiểu với nghĩa rất
trái khoáy: “Tránh cảnh không học thì không biết gì cho đồng bào” [Có
nghĩa làm sao để đồng bào không học mà vẫn biết!]. Trong khi, vận dụng
đúng phải là: Người xưa có câu bất học diện tường, bởi vậy chúng ta
phải tránh để đồng bào bị thất học.
o “chiến tranh lạnh •
dt.
tình trạng căng thẳng và thù địch
dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang giữa các nước này với nước khác <> Cuộc
chiến tranh lạnh giữa các nước đế quốc đi đến chỗ giành giật các nguyên liệu
chiến lược”.
Làm gì có “chiến tranh lạnh giữa
các nước đế quốc” (cùng phe phái) với nhau!
o “cờ bạc về
sáng • ng.
ý nói: Việc đã đến lúc sắp tàn rồi
<> Người ta đã mua hết cái đẹp rồi, anh đến muộn thì cờ bạc về sáng
còn ăn thua gì”.
“Cờ bạc về sáng”
có nghĩa cờ bạc thua hay được phải
đến chung cuộc, tàn cuộc mới biết (dị bản cờ bạc ăn thua về sáng). Theo
đó, với những hoạt động như chợ búa, mua bán, hội họp…, khi đến muộn, đi
muộn, không ai đem thành ngữ “cờ bạc về sáng” ra để vận dụng.
o “dùi đánh đục, đục đánh
chạm • ng.
Tác động đến người này thì ảnh
hưởng đến người kia <> Nó trêu em anh ta, bị anh ta đánh, dùi đánh đục,
đục đánh chạm mà!”.
Một ví dụ không ăn nhập gì với
câu tục ngữ, nội dung thông báo hoàn toàn phi logic. Vì theo cách nói của tục
ngữ: A [dùi] đánh B [đục]; khiến B [đục] lại
đánh C [chạm]; không phải A [dùi] đánh B [đục]; nhưng A (dùi) lại bị
kẻ thứ ba là C (chạm) đánh lại (để trả thù cho B) như cách ví dụ của soạn
giả.
o “đặc cán thuổng •
trgt.
Như Đặc cán mai (thtục)
<> Kể gì đến anh chàng dốt đặc cán thuổng ấy”.
Sở dĩ người ta nói “dốt đặc cán
mai”, vì cán mai làm bằng gỗ (thế nên Từ điển Đào Văn Tập còn thu thập
dị bản “dốt đặc cán táu”). Còn cán thuổng, cán cuốc, cán xẻng làm bằng
thân tre, làm sao mà “đặc” hoàn toàn được. Bởi vậy, không nên thu thập, giải
thích và cho ví dụ về cách sử dụng một dị bản thiếu chính xác là “đặc cán
thuổng”.
o “đấm bùn sang ao •
ng.
Làm một việc vô ích
<> Nó giàu rồi, cho nó thêm tiền chỉ là đấm bùn sang ao”.
Nếu đã giàu rồi, mà lại cho thêm
tiền, thì là việc làm không cần thiết, chứ không phải là chuyện “đấm/đánh
bùn sang ao” (việc làm luẩn quẩn, không có kết quả, tác dụng, đâu lại hoàn đấy).
o “ném bùn sang ao” •
ng.
Làm một việc tốn công vô ích
<> Nó rất chăm chỉ sao anh lại chê nó là ném bùn sang ao thôi”.
“Đấm bùn sang ao”, hay “ném bùn
sang ao” là hai dị bản đồng nghĩa. Tuy nhiên, cả hai lần soạn giả lấy ví dụ về
cách dùng đều không chính xác. Theo đó, ví dụ về cách sử dụng “ném bùn sang ao”
mâu thuẫn với nội dung lời giảng thành ngữ. “Chăm chỉ” hoàn toàn không có nghĩa
làm một việc không “tốn công vô ích”. Bởi vậy, dù “nó rất chăm chỉ”, nhưng lại
chăm chỉ vào một việc “tốn công vô ích”, thì “anh” vẫn có thể “chê nó là ném
bùn sang ao” như thường.
o “đầu chày đít thớt •
ng.
Nói người trong một cơ quan bị
sai phái, đã không có quyền lợi gì, lại bị trách mắng <> Anh ấy
không có cương vị gì trong cơ quan, nhưng lại là đầu chày đít thớt”.
Thứ nhất, thành ngữ này không
“nói người trong một cơ quan”, mà có thể là người trong một làng, một xã, hay một
tập thể nào đó; cũng không hàm ý chuyện quyền lợi hay không.
Sau đây là cách giảng đúng của Từ
điển Vietlex: “đầu chày đít thớt • [thgt] ví địa vị thấp kém của người chỉ
chuyên làm những việc người khác sai bảo, vất vả khó nhọc nhất: bọn đầu
chày đít thớt”; Từ điển Vũ Dung: “Đầu chày đít thớt. Địa vị của những
người chỉ chuyên làm những việc thừa hành vất vả khó nhọc; Người ở vào cái thế
bị trên ép xuống, dưới ép lên. Khổ thay cái kiếp làm tôi/Đầu chày đít thớt
ngồi xơi một mình (cd)”.
Thứ hai, do địa vị thấp kém, nên
kẻ “đầu chày đít thớt” mới bị sai phái, thừa hành đủ mọi công việc vất vả khó
nhọc. Thế nhưng, ví dụ “Anh ấy không có cương vị gì trong cơ quan, nhưng lại
là đầu chày đít thớt” của soạn giả lại có ý nói: đáng lẽ người “đầu chày
đít thớt” phải là người có “cương vị” trong cơ quan, chứ không phải “anh ấy” (một
người “không có cương vị gì”). Nghĩa là soạn giả đã sai khi dùng “nhưng” (trong
cấu trúc A nhưng B), để biểu thị ý điều B ngược lại với điều A; trong khi
đúng ra phải là quan hệ nguyên nhân và kết quả (vì A không có cương vị
gì nên A là đầu chày đít thớt) mới đúng.
o “đường cày dt
Từng đường lưỡi cày đã rạch: Chim
khách nhảy theo đường cày để bắt giun”.
Loài chim hay nhảy theo luống
cày bắt giun dế, là chim sáo, không phải chim khách.
Còn chim khách có hai loại, chim
khách (Crypsirina temmia) và chim khách đuôi cờ (Crypsirina
temnura) thuộc họ Quạ (Corvidae) chân ngắn, đuôi dài, không nhảy dưới
đất mà hay đậu vắt vẻo trên cành cao, vừa bay vừa bắt mồi, hoặc sà xuống bắt mồi
rồi lại vút lên cành cao. Bởi vậy, “Chim khách nhảy theo đường cày để bắt
giun” chỉ là một ví dụ cho xong chuyện của soạn giả, miễn sao có hai chữ
“đường cày” trong câu là được.
o “đứt tay hay thuốc •
ng.
Nhiều khi phải thông qua kinh
nghiệm có thể đau xót mới đi đến thành công <> Cuộc kháng chiến thần
kì của dân tộc ta là một bài học đứt tay hay thuốc”.
Tục ngữ có câu “Nhà giàu đứt
tay bằng ăn mày sổ ruột”. Theo đó, “đứt tay” hiểu theo cả nghĩa đen, nghĩa
bóng đều chỉ những vết thương, tai nạn nho nhỏ. Đem chuyện kinh nghiệm tích luỹ
được sau những khó khăn, vấp ngã (thường của một cá nhân nào đó), để ví với “cuộc
kháng chiến thần kì của dân tộc ta” là gượng ép, vô tình tầm thường hoá “cuộc
kháng chiến thần kì” ấy.
Chúng tôi sẽ tiếp tục trích dẫn
nội dung bổ sung của bản in 2018 trong các bài giới thiệu sau.
HOÀNG TUẤN CÔNG
9/2018
Nhận xét
Đăng nhận xét