CÁCH VẬN DỤNG TỪ NGỮ, THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ CỦA GS. NGUYỄN LÂN (P4)
CÁCH VẬN DỤNG
TỪ NGỮ, THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
CỦA GS. NGUYỄN LÂN (P4)
HTC
và PGS.TS Hoàng Dũng
người viết "Lời giới thiệu" và hết lòng cho sự ra đời của sách "Phê bình-khảo cứu"
lần đầu gặp nhau tại Tuấn Công Thư phòng (8/2018)
người viết "Lời giới thiệu" và hết lòng cho sự ra đời của sách "Phê bình-khảo cứu"
lần đầu gặp nhau tại Tuấn Công Thư phòng (8/2018)
(Trích tiểu mục
7 mới bổ sung trong bản 2018 [tổng 27 trang], thuộc mục “Tiếng mẹ đẻ”.)
o “muộn
còn hơn không • ng.
Tuy đã chậm,
nhưng vẫn hơn là không có hay không làm <> Vì bận việc anh không kịp
về dự lễ mừng đại thọ ông nội, khi về anh xin lỗi, cụ đã nói: Muộn còn hơn
không”.
Thực ra, ví dụ
của soạn giả đưa ra không điển hình, ý nghĩa và trật tự giữa các ý trong nội
dung diễn đạt không hợp tình hợp lí. Theo lẽ thường, khi “anh xin lỗi”, “ông nội”
anh phải nói “không sao, cháu về được là ông vui rồi” mới thể hiện đúng tâm lí,
tình cảm ông cháu. Thế nhưng, GS. Nguyễn Lân lại cho “cụ đã (sic)nói: Muộn
còn hơn không”, có nghĩa, “anh không kịp về dự lễ mừng đại thọ ông nội” là
lỗi lớn, và “cụ” sẽ khó chấp nhận nếu như cuối cùng anh vẫn không về. Theo đó, cách
dùng đúng phải là: “Vì bận việc anh không kịp về dự lễ mừng đại thọ ông nội”,
nhưng nghĩ muộn còn hơn không, nên anh vẫn quyết định về.
o “mưa
thời mưa cho khắp • ng.
ý nói: Đã có
gì tặng cho người trong một tập thể thì phải tặng cho tất cả, không sót người
nào <> Đi xa về có quà, thì phải cho mọi người trong gia đình, vì
mưa thời mưa cho khắp”.
Thực ra,
thành ngữ này không chỉ riêng việc tặng quà, mà được hiểu theo nghĩa rộng: Đã
chia phần, hay ban phát ân huệ thì nên công bằng, rộng khắp để ai cũng được hưởng.
Mặt khác, nếu “mưa thời mưa cho khắp”, được dùng để chỉ việc tặng quà, thì nên
ví dụ như sau: Đi xa về, đã có quà cho mọi người trong gia đình, thì hai
bên ông bà nội ngoại cũng phải có, đã mưa thì mưa cho khắp.
o “nát đảm
kinh hồn • ng.
(Đảm là mật ở
trong gan) Nói một việc kinh khủng khiến người ta sợ hãi <> Chúng
dùng lối tra khảo nát đảm kinh hồn, nhưng ông ấy vẫn nhất định không khai”.
Đúng ra “nát
đảm kinh hồn” là nói về chính nỗi sợ khiến người ta hoảng loạn mất hết tinh thần,
chứ không phải là “Nói một việc kinh khủng khiến người ta sợ hãi”. “Nát đảm
kinh hồn” là dị bản của “táng đảm kinh hồn” (đúng ra là “tánđảm kinh hồn”),
mà chính GS. Nguyễn Lân đã giảng: “táng (sic) đảm kinh hồn • ng. (H.
kinh: sợ; hồn: hồn) Sợ đến mức như mất vía <> Những cuộc ném bom của
địch làm cho trẻ em táng đảm kinh hồn”.
Như vậy, soạn
giả đã nhầm lẫn, khi biến nỗi sợ “nát đảm kinh hồn” của “ông ấy” (người bị tra
tấn) thành nỗi sợ của “lối tra khảo”. Mặt khác, cũng cần nói thêm, với dị bản “táng
đảm kinh hồn” thì ví dụ “Những cuộc ném bom của địch làm cho trẻ em
táng đảm kinh hồn”, cũng không phù hợp. Vì nỗi sợ của “trẻ em” là nỗi sợ theo bản
năng, chúng chưa hiểu “bom” thực sự nguy hiểm như thế nào. Trong khi “tán đảm
kinh hồn”, hay “kinh hồn bạt vía” thường được ví với nỗi sợ tác động mạnh đến mọi
giác quan, cảm nhận, suy nghĩ của người ta.
o “nắng
tốt dưa, mưa tốt lúa • ng.
Kinh nghiệm của
nông dân về ảnh hưởng của thời tiết đối với cây trồng <> Đối với nhà
nông mình thì nắng tốt dưa, mưa tốt lúa, chứ có ngại gì”.
Tục ngữ chỉ
rõ: nắng thì tốt cho dưa, mưa thì tốt cho lúa. Theo đó, nếu mưa nhiều, thì dưa
sẽ thất thu (do dưa đậu quả ít và không ngọt); trong khi đó, mưa nhiều thì lúa
sẽ tốt, vì lúa luôn được cung cấp nước đầy đủ và hấp thu nguồn đạm tự nhiên.
Như thế có nghĩa, mưa không tốt cho dưa, nhưng lại tốt cho lúa, và ngược lại.
Trường hợp một nông dân trồng cả dưa và lúa, thì kiểu gì cũng chỉ được một bề.
Thế nhưng, cứ theo ví dụ của soạn giả, thì với nhà nông, nắng cũng tốt, mà mưa
cũng tốt, không việc gì phải lo ngại. Theo đó, ví dụ đúng phải là: Năm nay
nắng nhiều sẽ tốt cho dưa, vì nắng tốt dưa, mưa tốt lúa mà!
o “ném
đá ao bèo • ng.
Làm một việc
vô ích, chẳng ăn thua gì <> Nó đã bị tù rồi, anh nói thêm tật xấu của
nó chỉ là ném đá ao bèo thôi”.
GS. Nguyễn
Lân giải thích như vậy là đồng nghĩa “ném đá ao bèo” với “đấm bùn sang ao” (như
chính soạn giả đã giải thích: “đấm bùn sang ao: làm một việc vô ích”).
Thực
ra, “ném đá ao bèo”, có nghĩa là làm một việc mà sự tác động không đáng kể, không
ăn thua, nên đâu lại hoàn đấy, giống như viên đá ném xuống ao bèo, chỉ khiến
mặt nước giãn ra tí chút, rồi bèo lại phủ kín, trong khi chẳng thấy tăm hơi hòn
đá ở đâu. Theo đó, dùng “ném đá ao bèo” để ví với việc “nói thêm tật xấu” của kẻ
“đã bị tù rồi”, là cách ví không ăn nhập gì với thành ngữ.
o “ngọc
lành chẳng phải bán rao • ng.
Vật tốt, người
tốt không cần phô trương, người ngoài cũng biết <> Người như ông ấy,
ai mà chẳng phục, ngọc lành chẳng phải bán rao mà”.
Trường hợp “ông
ấy” là người giỏi, sống lặng lẽ, kín tiếng, mà vẫn được nhiều người biết đến,
thì gọi là “hữu xạ tự nhiên hương”. Còn “người như ông ấy, ai mà chẳng phục”,
không có nghĩa ông ấy hoàn toàn không giới thiệu hoặc tìm mọi cách để mọi người
đều nể phục, biết đến. Mặt khác, làm gì có chuyện rao bán ở đây mà ví von như vậy?
Theo đó, nếu muốn vận dụng câu tục ngữ này, thì phải đưa ra ví dụ: Chậu
cây cảnh đẹp nhất ông ấy để khuất ở sân sau, thế mà nhiều người vẫn biết đến và
sẵn sáng trả giá cao, đúng là “ngọc lành chẳng phải bán rao”.
o “ngọn
đèn trước gió • ng.
Nói sự nguy
hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào <> Tình hình căng thẳng như ngọn
đèn trước gió”.
Thực ra, “ngọn
đèn trước gió” là nói về sự sống mong manh trước cái chết, chẳng khác nào
ngọn đèn trước cơn gió chực thổi mạnh, có thể bị tắt ngấm vĩnh viễn, không ai
đem so sánh với “tình hình căng thẳng” nói chung. Theo đó, không ai nói: Tình
hình trên bán đảo Triều Tiên căng thẳng như ngọn đèn trước gió.
o “ngọt
như mía lùi • ng.
(Mía lùi là
mía vùi vào đám tro nóng) Thành ngữ này thường dùng một cách mỉa mai để chỉ một
lời nói khéo mà không thực <>Bà ta gặp người nào thì lời nói cứ ngọt như
mía lùi”.
Mía lùi vào
tro nóng, hoặc bếp than, thì đường trong mía sẽ được cô lại, nên “mía lùi” rất
ngọt và thơm. Theo đó, thành ngữ “ngọt như mía lùi” được dùng để ví với lời nói
hấp dẫn, dễ nghe, có sức thuyết phục cao (tuỳ theo hoàn cảnh mà được hiểu theo
nghĩa tích cực hay tiêu cực); hoàn toàn không phải chỉ dùng “mỉa mai để chỉ
một lời nói khéo mà không thực”.
o “ngơ
ngác như vạc đui • ng.
(Vạc là loài
chim hay đi ăn đêm) Đứng ngẩn ra như không trông thấy gì <> Nghe cái
tin lạ lùng ấy, anh đã ngơ ngác như vạc đui”.
Một câu ví dụ
ngang phè.
Vì có hàm ý
so sánh, nên người ta thường dùng phụ từ biểu thị ý khẳng định đi với “ngơ
ngác” (trạng thái), không ai dùng phụ từ biểu thị ý thời điểm như “đã”. Theo
đó, cách đặt câu đúng phải là: Nghe cái tin lạ lùng ấy, anh cứ ngơ
ngác như vạc đui.
o “ngủ
ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm • ng.
Chê kẻ hay ngủ
ngày và hay ăn vặt <> Cậu thực đúng như câu ngủ ngày quen mắt, ăn vặt
quen mồm”.
Thực ra câu
này có nghĩa khái quát là: hành động, thói quen không tốt sẽ tạo nên những tật
xấu khó sửa, chứ không phải “Chê kẻ hay ngủ ngày và hay ăn vặt”. Mặt khác, ví dụ
của soạn giả rất trái khoáy. Bởi “như” là từ biểu thị quan hệ ngang bằng hoặc
tương đồng trong sự so sánh, vì vậy, không ai đi so sánh “cậu” (con người) với
câu “ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm” (ý niệm).
o “người
dại cởi truồng người khôn xấu mặt • ng.
ý nói trong một
tập thể nếu có kẻ làm điều xấu thì những người khác cũng bị xấu lây
<> Nó là con cháu trong họ mà nó lại là Việt gian thì khác nào người
dại cởi truồng người khôn xấu mặt”.
“Người
dại cởi truồng người khôn xấu mặt” (dị bản Kẻ dại cởi truồng, người khôn xấu
mặt), có nghĩa: không nên giao du, gần gũi những kẻ điên khùng, liều lĩnh, trơ
trẽn, mà có lúc phải xấu hổ thay cho những hành động, việc làm của họ; hoặc
không biết bảo ban kẻ ngu dại, thì sẽ có lúc chính mình sẽ bị xấu
lây. Trong khi nghĩa mà GS. Nguyễn Lân giảng phải là câu “con sâu làm rầu
nồi canh”; “một người làm đĩ xấu danh đàn bà” mới đúng.
o “người
sống đống vàng • ng.
Con người nói
chung là rất đáng quí <>Những kẻ gây chiến tàn sát bao nhiêu nhân mạng,
không nghĩ rằng người sống đống vàng”.
“Người sống đống
vàng”, hay “Người làm ra của, của không làm ra người”, “Người sống của còn, người
chết của hết” ý nói, tính mạng con người là trên hết, của cải dù quý giá bao
nhiêu cũng không bằng. Việc đem câu tục ngữ ra để lên án “những kẻ gây chiến
tàn sát bao nhiêu nhân mạng” là hoàn toàn lạc đề.
o “nhà
đói mắc bệnh bá hộ • ng.
(Bá hộ là chức quan nhỏ dưới thời phong kiến)
Chê kẻ không có tài năng lại có tham vọng làm chức vụ nọ kia <>Anh chàng ấy
muốn ra ứng cử đại biểu quốc hội, nhưng nhà đói mắc bệnh bá hộ thì ai bầu cho”.
“Nhà đói mắc
bệnh bá hộ”, hay “Con nhà lính, tính nhà quan” ý nói gia cảnh, địa vị thấp kém
nhưng lại mắc thói đua đòi, muốn sinh hoạt, tiêu xài như nhà giàu có, chứ không
phải “Chê kẻ không có tài năng lại có tham vọng làm chức vụ nọ kia”. Theo đó, vận
dụng câu tục ngữ vào chuyện bầu bán, “ứng cử đại biểu quốc hội” là ví dụ lấy được,
không cần biết có hợp hay không.
o “nhất
tiếu thiên kim • ng.
(H. tiếu: cười; thiên: nghìn; kim: vàng) Nói
người phụ nữ đẹp chỉ cười một cái cũng đã đáng nghìn vàng <> Nhà nho
ca tụng người phụ nữ đẹp nói là nhất tiếu thiên kim”.
Thực ra,
thành ngữ có nghĩa: làm vừa lòng người đẹp, lấy được nụ cười người đẹp rất khó.
Thành ngữ này xuất phát từ tích U Vương vì muốn có được nụ cười của nàng Bao Tự
mà tìm đủ mọi cách, như đem hết vải vóc trong kho ra để hàng ngày xé cho Bao Tự
nghe, rồi đốt lửa làm hiệu lệnh giả như có giặc đến để các nước chư hầu đến ứng
giúp, cuối cùng Bao Tự đã mỉm cười. Đến khi có giặc thật, U Vương đốt lửa gióng
trống, nhưng không một nước nào tới cứu viện. U Vương phải bỏ mạng vì đơn
thương độc mã.
Ví dụ “Nhà
nho ca tụng người phụ nữ đẹp nói là nhất tiếu thiên kim” của soạn giả rất tối
nghĩa. Phải chăng, ý soạn giả là “nhà nho ca tụng người phụ nữ đẹp”, thì họ sẽ
“nói là nhất tiếu thiên kim” (kiểu ca ngợi người đẹp của nhà nho)?
o “như
ếch vào xiếc • ng.
(Xiếc là bẫy
bắt ếch) Không thể thoát được <>Ai đã bị hắn lừa thì như ếch vào xiếc”.
“Ếch vào xiếc”
thì quả là khó thoát ra thật. Tuy nhiên thành ngữ “như ếch vào xiếc” không có ý
đó, mà là hàm nghĩa: rơi vào tình thế bối rối, lúng túng, không biết cách gỡ ra
thế nào. Bởi vậy, còn có dị bản “lúng túng như ếch vào xiếc”.
(Còn nữa)
HOÀNG TUẤN CÔNG
9/2018
Nhận xét
Đăng nhận xét