GIAI THOẠI NHÀ THƠ ĐIÊN BÙI GIÁNG
GIAI THOẠI NHÀ THƠ ĐIÊN
BÙI GIÁNG
Nói đến nhà thơ Bùi Giáng thì ở
miền nam ai cũng biết. Ông là một trí thức. Trong giới văn học nghệ thuật, ông
là một thi sĩ nổi tiếng và dịch thuật nhiều tác phẩm văn chương quốc tế và ông
còn là một giáo sư dạy tại các trường.
Người ta trông thấy ông đi lang thang trên khắp đường phố
Sài Gòn với thân xác tiều tụy. Trên đầu ông đội cái nón mơ, vai đeo một cái bị
to, một tay chống gậy và cứ thế lầm lũi đi không để ý đến ai cả. Ông vừa đi vừa
lẩm bẩm như nói chuyện một mình, thỉnh thoảng lại nhếch mép cười không ra tiếng.
Bạn bè quen thuộc và các học
sinh cũ của ông ai cũng nói là ông bị loạn trí hay bị điên rồi. Và họ chỉ còn
biết lắc đầu thương hại và tội nghiệp cho ông.
Ông đi ăn xin. Hàng ngày, ông đi
đến các nơi đông người ngả nón ra xin tiền. Ai thấy ông cũng đều cho. Ông nhận
và cúi đầu cám ơn. Ông chỉ nhận tiền mà không nhận ra người cho là người quen
hay học trò cũ của ông nên ai cũng yên trí là ông bị điên. Khi nào ông cảm thấy
đói bụng, ông ghé vào các tiệm ăn sang trọng, ông đứng chờ thực khách ăn xong
liền lễ phép xin các đồ ăn thừa. Ông đổ tất cả vào cái cà mèn rồi đem ra ngoài
tìm chỗ nào vắng vẻ, lẳng lặng ăn một cách ngon lành. Khi nào khát nước, ông ra
phong- ten cúi xuống uống, xong đi tìm chỗ nào mát ông để cái bị xuống gối đầu,
làm một giấc ngủ bình an.
Đôi khi người ta còn thấy ông
lôi ra các cuốn sách ngoại quốc ở trong bị, ông đọc và ngâm thơ của họ, và của
ông. Rồi ông ghi chép các câu thơ của ông mới làm xong.
Có hôm trời Sài Gòn nóng bức
quá, thế là ông cởi hết quần áo, trần truồng tự nhiên, lội xuống các bồn nước ở
các công viên đường Nguyễn Huệ, trước cửa Tòa Đô Chánh ông tắm một cách thoải
mái. Đôi lúc ông mót tè, ông cũng thản nhiên vạch quần ra tè ngay trên đường phố
truớc mặt nhiều người qua lại. Mọi người trông thấy nhưng chẳng ai trách ông một
lời nào cả, họ lắc đầu thương hại cho ông già điên.
Cơm thì ăn xin, nước có các nơi
công cộng rồi, ông có tiều xài gì đâu mà cần đến tiền. Ông đi xin như vậy lại
có rất nhiều tiền người ta cho. Cứ tối đến, ông lôi hết tiền ra, ông đếm thấy
nhiều nên vui và cười lớn. Thế là ông đi tìm các em bé mồ côi bụi đời lang
thang trên khắp hè phố. Ông bảo tụi nó kêu nhau tập trung lại chung quanh ông.
Ông vui đùa với chúng, rồi sau đó, ông kéo hết lũ trẻ đến quán cơm Bà Cả Đọi,
ông bảo tụi nó là các cháu cứ việc ăn cho no nê thỏa thích, đứa nào muốn ăn cái
gì thì cứ ăn. Xong ông trả tiền hết, rồi ông chia tay các cháu. Ông đi tìm chỗ
nào kín ông làm một giấc đến sáng.
Cứ như vậy ngày này qua tháng
khác, ông xin được tiền là đem đi nuôi các cháu, đó là niềm vui của ông.
Một hôm, ông đi ra đường Tự Do
xin tiền. Đây là con đường có nhiều người bán đủ thứ ở hè phố và rất đông người
đi mua sắm. Ông vừa tới nơi thấy đông nên ghé lại. Ông định ngả nón ra xin tiền
thì thấy có cặp vợ chồng người Liên Sô đi mua đồ. Ông thấy con mụ Liên Sô đứng
đang ngắm nghía đồ đạc mặc cái áo để hở cái ngực ra một chút, cặp vú của nó to
quá! Thế là ông tiến ngay lại, tự nhiên lấy tay bóp cặp nhủ hoa của bà ta.
Con mụ Liên Sô bị ông làm bất
thình linh nó hoảng sợ ú ớ kêu. Chồng mụ đi cạnh thấy ông đang bóp vú vợ nó, nó
sững sờ và nói gì với ông. Mọi người thấy ông rất bình tĩnh trả lời nó bằng tiếng
Anh. Sau khi tên Liên Sô nghe ông nói, nó không còn sừng sộ nữa mà còn cười và
bắt tay ông. Xong xuôi nó kéo vợ đi ngay.
Mọi người chứng kiến cảnh đó đều
ngạc nhiên. Thật kỳ lạ là ông già chỉ có nói vài câu thôi mà tên Liên Sô chẳng
những không nổi giận vì hành động của ông mà còn bắt tay ông vui vẻ, họ thấy bu
lại hỏi ông.
_ Thưa cụ, cụ nói gì mà tên Liên
Sô đó nó cười và bắt tay cụ vậy?
Ông trả lời:
_ Nó hỏi tôi là mày làm cái gì
thế? Tôi mới trả lời là tao thấy cái vú vợ mày bự quá, nên tao sờ và bóp thử
xem đàn bà Liên Sô có đủ sữa nuôi dân tao không? Tôi nói có vậy thôi, thế là nó
vui vẻ bắt tay tôi và đi luôn.
Mọi người ai cũng thán phục ông
già điên mà nói một câu quá chí lý và thâm sâu. Ai cũng kính phục ông, vì họ
không ngờ một ông già ăn xin lại giỏi chữ nghĩa thế.
Một hôm khác, ông lang thang ở
khu vực chợ trời nơi bán đồ phụ tùng xe máy. Ông thấy đông người đi coi đồ để
mua, ông cũng dừng chân lại và ngắm xem hàng hóa. Lúc đó ông trông thấy gian
hàng đang treo lủng lẳng cái ghi đông ngoài đường. Ông lấy xuống xem. Ông ngắm
đi ngắm lại và thản nhiên cắp vào nách đi luôn.
Ông đi được một đoạn khá xa thì
chủ tiệm phát hiện ra ông đã lấy mất cái ghi đông, thế là mụ chủ và chồng con
la lối om sòm, kêu người đuổi bắt ông già ăn cắp. Mụ chủ và con cái vừa chạy vừa
la, ông biết nhưng ông vẫn thản nhiên đi. Khi ông biết họ đã đến gần, ông bỗng
nhiên quay lại và chìa cái ghi đông ra trả lại, tay ông cầm cái ghi đông, miệng
thì cười và thản nhiên nói:
_ Gớm! Mới mất có một cái ghi
đông chả đáng bao nhiêu tiền, thế mà cả nhà, cả họ chạy đuổi theo và la làng la
xóm ỏm tỏi cả lên.
Nói xong ông thủng thỉnh bước
đi, làm cho những kẻ đuổi ông lúc nãy không còn hung hăng nữa, cha con lắm lét
nhìn nhau sượng sùng vì câu nói của ông già điên chí lý và thâm sâu quá. Họ im
lặng kéo nhau về. Những người ở đó nghe ông nói, họ bảo nhau và tỏ vẻ thán phục
ông:
_ Đó cứ nói ông là ông già điên,
ông điên mà ông nói ra những câu nói đầy thâm thúy đó được à?
Sau đó ít ngày, ông đang ngủ
ngon giấc thì bị hốt ông mang về phường giam vì can tội ngủ
đường. Thời đó có quá đông người ở vùng kinh tế mới trốn về Sài Gòn, nhà đã bị
tịch thu không có chỗ ngủ nên phải ngủ đường quá đông. Họ thu dọn và ngồi xích lại với nhau để chừa chỗ cho các ông
bà già và con nít nằm. Các ông bà già thì khóc tức tưởi, con nít thì khóc sợ
hãi. Riêng ông thì cứ lầm lì coi thường, vì đối với ông bây giờ ngủ đâu cũng vậy
thôi, vỉa hè hay nhà giam chả có gì khác nhau cả. Ông bình thản lấy cái bị ra gối
đầu và nằm ngủ yên.
Đến hai giờ sáng thì mọi người
đã mệt không còn ai có sức mà khóc nữa. Con nít đã ngủ yên. Trong phòng giam
lúc đó thật yên lặng, lúc đó đến lượt ông phá. Ông tỉnh ngủ và ra đứng trước cửa
song sắt. Hai tay ông nắm chấn song, miệng ông bắt đầu cứ thế la to làm không
ai ngủ được vì ông la rất lớn. Tay phường trưởng xuống, mở khóa, lễ phép
mời ông ra và năn nỉ cụ ra về cho, để cho im lặng và khỏi mất mặt với dân. Thế
là ông thủng thỉnh ra về, vừa đi vừa cười.
Quen lệ cứ tối đến là ông tìm
vào nhà hàng lớn vì nhà hàng lớn có nhiều khách sang họ ăn dư thừa nhiều thì
ông có dư đồ ăn. Hôm đó, ông đang đứng chờ ở một bàn có bốn người ăn mặc sang
trọng và ăn toàn đồ ăn sang ê hề. Ông nhẫn nại chờ để xin đồ dư. Ông đang chăm
chú nhìn vào bàn ăn có nhiều đồ ăn sang, ông đang mừng vì hôm nay lại được ăn
ngon rồi thì bỗng nghe bàn phía sau ông có tiếng phụ nữ nói chuyện với người
đàn ông cùng bàn. Ông nghe hễ người phụ nữ này mở miệng ra nói là cứ “Kính thưa
đại ca đại thi sĩ”. Cái chữ đại thi sĩ làm ông tò mò và lắng tai nghe. Tại sao lại
có đại thi sĩ nào vậy. Ông khẽ liếc về sau xem ai thì thấy người phụ nữ đang
nói chuyện là người miền Nam, ăn mặc sang trọng, phấn son lòe loẹt.
Còn người đàn ông đang ngồi đối
diện mà cô ta đang ra sức ca tụng là đại thi sĩ kia là người gầy còm hốc hác,
chứng tỏ là kẻ thiếu ăn lâu ngày, quần áo thì rộng thùng thình bằng vải kaki
Nam Định đã cũ, chân đi dép râu, và ngay cạnh bàn chỗ hắn ngồi lù lù một cái
nón cối. Ông hiểu đó là một tên cán bộ văn nghệ miền Bắc mới vô có danh xưng là
Thu Bồn. Ông nhìn người phụ nữ thấy quen quen, hình như đã gặp ở đâu vài lần rồi
thì phải. Một lúc sau, ông chợt nhớ ra là cô này có vài lần đến Hội Văn Nghệ để
tặng giai phẩm trong đó có in thơ của cô ta. Ông nhớ có một lần cô ta ăn mặc rất
sang trọng đi xe xích lô tới, tay ôm cả một xấp giai phẩm mùa hè. Trong tờ giai
phẩm ấy có in một bài thơ của cô ta làm ngay trang đầu có vẽ hoa lá cành chung
quanh, ở dưới đề nữ sĩ Thu Ba.
Cô ta vào với thái độ rất nhũn
nhặn, niềm nỡ. Cô chào mọi người xong rồi đưa báo tặng, cô cũng không quên viết
tặng từ anh gác dan đến các văn nghệ sĩ, cô không bỏ sót một ai. Sau khi tặng
báo xong cô ra về thì trong phòng bỗng xôn xao vì có một anh văn nghệ sĩ lớn tiếng
nói đùa chơi:
_ Này các anh em, có nhìn kỷ nữ
sĩ Thu Ba không? Nữ sĩ tuy xuân xanh ngoài tứ thập thôi mà còn gin đấy, vẫn
phòng không lỡ bóng, chưa tìm được người nào xứng đáng để nâng khăn sửa túi đó.
Anh nào góa vợ hay vợ nó bỏ vì làm văn nghệ không nuôi nổi vợ, mà muốn được
cung bắn vô thì khao tớ một chầu cà phê, tớ mách đường cho. – Anh ta còn nói
thêm – Bắn được con se sẻ này là chuột sa hủ nếp khỏi phải còng lưng viết lách
gì cả.
Thế là cả phòng cười vang lên.
Anh nói tiếp:
_ Vì tớ ở gần nhà nữ sĩ nên biết
rất rõ, nàng là con gái cưng của một nhà xuất nhập cảng giàu có. Nàng là con
nhà giàu và lại thích văn thơ nên rất là kén, vì vậy bây giờ vẫn ở không đó_ Thấy
mọi người chú ý câu chuyện của mình nên khoái chí nói tiếp _ Ấy, nàng rất yêu
văn nghệ thi ca, mà nàng còn làm nhiều thơ nữa. Nhưng ác một nỗi là nàng đã gửi
thơ nàng đi khắp các báo ở thủ đô mà không có tờ nào đăng cho nàng bài nào cả.
Nàng chờ đợi, khao khát bao nhiêu năm có thơ đăng báo để được mang danh nữ sĩ
dù là có tên trên một tờ báo lá cải cũng được.
Và sau đó, có mấy anh nhà báo
nghèo đứng ra xuất bản tờ giai phẩm mùa hè Mưa Thu, chủ đích xin quảng cáo để sống.
Hôm ấy, nàng đang ở tại hãng thấy một anh đem mẫu tờ giai phẩm lại xin quảng cáo
hãng của cha mẹ. Thế là nàng mừng, nói với anh nhà báo là nếu tập giai phẩm mà
chịu đăng thơ cho nàng ở đầu thì nàng sẽ cho quảng cáo lớn. Khi in xong nàng hứa
mua cho một số lớn để đi tặng bạn bè. Mấy anh nhà báo lá cải này đâu có cần thơ
hay hoặc dỡ thấy nàng hứa cho tiền là nhận ngay và hứa là sẽ đăng trang trọng nữa.
Và giữ đúng lời hứa, giai phẩm ra là nàng mua cho mấy trăm số để mang đi tặng mọi
người cho biết danh. Bây giờ thì anh nào muốn được người đẹp để ý lọt vào mắt
xanh thì chỉ việc làm một vài bài thơ ca ngợi nữ sĩ trên báo và chịu khó đi năn
nỉ mấy ông chủ báo thương tình đăng thơ lên báo là xong thôi.
Nghe anh ta mách nước thế là cả
phòng lại có dịp cười vang và xôn xao rất vui.
Nghe cô nàng luôn luôn xưng tụng
tên cán bộ là đại thi sĩ và cô nàng còn ba hoa lên án văn nghệ miền nam, nên
ông lẳng lặng lắng tai nghe. Cô nàng nói:
_ Anh Thu Bồn à, sau cách mạng
mùa thu thì anh đi theo cách mạng, còn em thì theo gia đình di cư vào Nam, em
không còn biết gì về anh nữa. Lắm khi nhớ anh, em cứ nghĩ là không biết giờ này
anh ở đâu và ra sao. Anh còn sống không hay đã hy sinh cho Tổ Quốc và cách mạng
rồi. Sau ngày Miền Nam được giải phóng em có đọc trên báo thấy họ đăng thơ anh
dưới ký tên Thu Bồn, em mừng. Em đến tòa báo hỏi tin anh, họ cho biết anh bây
giờ là một đại thi sĩ Miền Bắc rồi. Thơ anh làm chỉ đứng sau nhà thơ lão thành
Tố Hữu thôi. Họ nói muốn liên lạc với anh thì cứ viết thư ra Hội Văn Nghệ Hà Nội
đề Đại Thi Sĩ Thu Bồn là tới. Em đang định viết thư cho anh thì anh lại vào đây
và tìm đến thăm em.
Khi thấy anh, em thật là thương
anh vì anh gầy yếu và già đi nhiều. Em rất thương anh cả một đời hy sinh cho
cách mạng sống thiếu thốn nên em mới mời anh đi ăn tối nay để bồi dưỡng cho
anh. Anh cứ tự nhiên ăn uống cho thỏa thích để bù đắp lại bao năm gian nan, cơ
cực.
Tiếp theo cô ta còn say sưa ba
hoa và hết lời ca ngợi tên này rồi còn mạt sát nền văn nghệ miền Nam:
_ Anh Thu Bồn à, em không những
bái phục anh về thơ, mà em còn sung sướng được đọc các bài anh viết phê bình và
giáo dục hướng dẫn cho anh em văn nghệ sĩ miền Nam đi đúng hướng của văn học xã
hội chủ nghĩa nữa. Đọc các bài viết của anh em mới tỉnh ngộ và đôi khi thấy xấu
hổ cho giới văn nghệ Miền Nam mà trong đó có em, bao nhiêu năm u mê vì bị Mỹ Ngụy
nó đầu độc và bịt mắt không nhìn thấy đường đi sai lầm của mình. Em càng đọc
càng suy gẫm những lời chỉ bảo của anh mà khâm phục, Anh nói thật chí lý là
theo lời Bác dạy là làm văn nghệ thì đường hướng chính là phải phục vụ cho nhân
dân và quần chúng. Nếu không phục vụ được cho nhân dân thì là sai và không xứng
đáng.
Em suy nghĩ và nhìn lại thì ra nền
văn nghệ Miền Nam trước đây không đi đúng với lời Bác dậy mà chỉ phục vụ cho một
thiểu số đầu óc tư sản và đồi trụy thôi. Các bài thơ họ làm chỉ toàn là thương
vay khóc mướn, thở than về tình yêu, như vậy họ có phục vụ cho ai đâu và làm ủy
mị con người đi. Đôi lúc em đọc những bài thơ, em thấy họ chỉ thích dùng những
chữ và từ ngữ sáo rỗng để khoe mình là có học thôi. Đến như em, biết làm thơ mà
đọc thơ của họ em không hiểu nổi họ nói gì huống hồ nhân dân làm sao hiểu được.
Em thí dụ cho anh thấy là ở miền Nam đã đẻ ra nhiều quái thai về thơ, họ làm
không luật lệ, không vần điệu lủng ca lủng củng, câu thì hai chữ, câu thì ba chữ,
và câu thì dài thòng ra, mà họ ra sức ca ngợi gọi đó là sáng tạo là trường phái
Tự Do nữa. Đứng đầu phái này có tên Thanh Tâm Tuyền. Thơ gì lạ quá thế mà cũng
gọi là thơ được như:
Một cái cửa sổ
Hai cái cửa sổ
Ba cái cửa sổ
Còn tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ…
Cô ta ba hoa chích choè:
_ Anh nghe xem có chịu được
không? Nếu làm thơ như vậy mà khen hay, khen tài thì em chỉ ngồi một lúc là làm
cả trăm bài, vì cứ đem cửa sổ ra mà tính thì dễ ợt à. Em cho đó là một quái
thai và còn nực cười hơn nữa, là có tên Bùi Giáng mà họ ra sức ca ngợi là vua
thơ lục bát mới lạ chứ. Có hôm em đọc được hai câu hắn ta làm thì em cười quá.
Làm có một câu lục bát mà không xong, không biết gieo vần. Đọc lên nghe nó ngộ
quá! Em đọc cho anh nghe nhé:
“Sông sâu sóng vỗ dập dồn.
Có cô thôn nữ ngửa bụng ra bơi”.
Chả có vần gì mà họ cứ tâng bốc
là vua thơ lục bát đó, anh nghe thấy có ngán không?
Cái tên này em mới nghe là hắn bị
điên, điên vì cuồng chữ đấy, tội nghiệp cho lão ta.
Bùi Giáng thấy cô nàng đã mạt
sát văn nghệ Miền Nam rồi lại còn lôi cả ông ra sỉ vả thì ông không còn chịu được
nữa. Ông quay lại, rồi từ từ tiến tới trước bàn hai người. Ông lễ phép ngả nón
ra chắp tay lại xá dài và nói:
_ Tôi thật lấy làm vinh hạnh bất
ngờ được nghe hai vị nói chuyện. Hoá ra hai vị là hai nhà thơ lỗi lạc. Thật là
vinh dự cho tôi may mắn được gặp hai vị. Một nhà đại thi sĩ là đèn trời soi
sáng và là một cây cổ thụ của nền thi ca Việt Nam. Còn nữ sĩ là ngôi sao mai rực
sáng của Miền Nam mà tôi không biết, thật là đắc tội. Vừa rồi tôi có nghe lỏm
được nữ sĩ Thu Ba phê bình văn nghệ Miền Nam. Nữ sĩ lại phê bình cả thơ nữa, mà
trong đó nữ sĩ có nhắc đến tên tôi. Tôi xin được hân hạnh giới thiệu tôi là Bùi
Gíang đây.
Thu Ba nhìn ông sửng sốt và có ý
hơi thẹn vì vừa rồi trót sỉ vả ông là làm thơ sai luật. Nữ sĩ cũng lịch sự đứng
dậy cúi đầu chào lại. Ông nói:
_ Thật hân hạnh được biết nhị vị.
Tôi không có gì để làm quà tặng nhị vị vì tôi là tên ăn mày. Tôi chợt nghĩ ra
được hai câu thơ để làm quà tặng nhị vị. Tôi cảm ơn nữ sĩ Thu Ba vừa rồi có chê
tôi là làm thơ lục bát không đúng vần điệu. Sau khi hứng khởi làm hai câu thơ mới,
tôi nhẩm đọc thấy quả thật chưa được đúng vần điệu. Tôi nghĩ mãi không biết làm
sao cho nó có vần, nhị vị thấy sai thì xin thương tình sửa lại giùm. Vì lâu nay
tôi bị mắc bệnh thần kinh đầu óc không được sáng suốt nữa.
Ông nói xong, lấy tờ giấy học
trò trong bị ra viết hai câu thơ chữ lớn. Viết xong ông còn ngâm vang lên:
Thu Ba ca ngợi Thu Bồn
Thu Bồn khoái chí sờ vai Thu Ba.
Tất cả thực khách nghe ông ngâm
thơ nên chú ý nghe và khi ông ngâm xong tất cả thực khách cười ồ lên. Ông cũng cười
to, rồi ông chắp tay xá và đi luôn.
Thu Bồn thấy vậy liền tỏ vẻ giận
dữ và bảo:
_ Đúng là tên điên. Thơ với phú,
làm có câu lục bát không xong mà cũng đòi là thi sĩ_ Thu Bồn nói với Thu Ba_
Anh giận thì nói thế thôi, chứ cũng tội nghiệp cho hắn. Dù sao thì hắn cũng biết
phận và biết kính phục anh em mình, nó xin sửa giùm, vậy em xem thế nào để giúp
nó.
Thu Ba cầm tờ giấy do Thu Bồn
đưa thì nàng mặt đỏ lên. Cô nàng lanh ý bán cái lại cho Thu Bồn:
_ Trời ơi! Đại ca là đại thi sĩ
sao không sửa cho hắn mà lại đẩy cho em. Em là em út mà đâu dám qua mặt anh sửa
đi.
Bị Thu Ba bán cái lại, Thu Bồn vội
cầm tờ giấy đó đút vào túi rồi bảo với Thu Ba:
_ Thôi để đó, về nhà có thì giờ
anh sửa cho, còn bây giờ anh em mình ăn đã kẻo thức ăn nguội cả.
Nói xong là hắn cắm cúi ăn như tên chết đói lâu ngày.
Nói xong là hắn cắm cúi ăn như tên chết đói lâu ngày.
Hơn một tháng công tác ở miền
Nam, Thu Bồn trở về Bắc và đến Tố Hữu để báo cáo. Tố Hữu nghe Thu Bồn báo cáo
xong thì khen:
_ Tôi thành thật ca ngợi và khen
chú đã hoàn thành công tác do Đảng giao phó cho. Bây giờ chú kể cho tôi nghe
xem một tháng ở miền Nam có gì vui không?
Thu Bồn mới kể là gặp lại cô em
nuôi ở miền Nam cũng là thi sĩ và được cô em chiêu đãi ăn nhà hàng ra sao. Thu
Bồn cũng không quên kể lại câu chuyện gặp Bùi Giáng và được Bùi Giáng tặng thơ:
_ Em đang ngồi ăn thì gặp một
tên ăn xin, nó xưng là thi sĩ Bùi Giáng. Nó kinh sợ tụi em lắm và làm hai câu
thơ tặng tụi em. Em nghe nó ngâm mà buồn cười vì nó làm có câu hai lục bát thôi
mà cũng không xong. Nhưng em thương là nó biết điều và kính sợ em nên có ngỏ lời
là xin sửa giùm nếu thấy sai, nghe nói nó bị điên nữa.
Nói xong Thu Bồn lục túi lấy bài
thơ đưa cho Tố Hữu xem và nói:
_ Đại ca xem có thì giờ sửa giùm
nó, vì em quá bận.
Tố Hữu đón lấy hai câu thơ. Sau
khi đọc xong thì Tố Hữu cau mày lại và nói với Thu Bồn:
_ Này chú ạ, chú nói tên này nó
điên khùng, mà tôi đọc qua hai câu thơ này của nó thì tôi có cảm nghĩ là nó
không có điên, nó còn là một tên văn nghệ cực kỳ phản động nữa là khác. Nó làm
hai câu thơ này rất thâm thúy. Nó lại cố ý nài nĩ xin chú sửa là nó muốn thử sức,
thử tài chúng ta đó. Thơ nó rất là khó mà sửa nổi, ngay tôi cũng xin chịu thua
thôi.
Trịnh Hưng
Nhận xét
Đăng nhận xét