Kỳ 170-CUỘC DI DÂN LỊCH SỬ VỀ PHƯƠNG NAM
Kỳ 170
CUỘC DI DÂN LỊCH SỬ
VỀ PHƯƠNG NAM
Sau khi chúa Nguyễn Hoàng mất, con trai thứ 6 là Nguyễn Phúc
Nguyên lên thay và làm nên một cuộc di dân về phương Nam vô cùng ngoạn mục..
Tương truyền lúc mang thai, mẹ chúa Nguyễn Phúc Nguyên là phu
nhân Nguyễn Thị nằm mơ thấy có vị Thần đưa cho một tờ giấy trên có đề chữ
“Phúc”.
Khi tỉnh dậy, bà kể lại cho mọi người giấc mơ của mình. Mọi
người chúc mừng bà và đề nghị đặt tên đứa bé là Phúc. Nhưng bà nói rằng nếu đặt
tên là Phúc thì chỉ mình đứa bé hưởng, nên bà muốn lấy chữ “Phúc” làm tên lót, ẩn
chứa mong muốn rằng đứa bé sau này sẽ tạo phúc cho muôn dân.
Năm 1613, Nguyễn Phúc Nguyên chính thức lên kế vị. Ông ban
hành rất nhiều chính sách về dân sự nhằm xây dựng chính quyền Đàng Trong hùng mạnh,
cũng như ổn định cuộc sống dân chúng. Người dân tin yêu gọi ông là Sãi Vương,
chúa Sãi, chúa Bụt hay Phật chúa.
Năm 1611 đất họ Nguyễn đã trải dài đến vùng cực nam Phú Yên (ảnh qua
lichsunuocvietnam.com)
Sách “Đại Nam thực lục” ghi chép lại rằng:
Nguyễn Phúc Nguyên cho sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân
dân, trong ngoài đâu cũng vui phục, bấy giờ người ta gọi là Chúa Phật. Từ đấy mới
xưng quốc tính là họ Nguyễn Phước hay Nguyễn Phúc.
Hội An trở thành cảng tiêu biểu ở châu Á, nổi tiếng trên thế
giới
Chúa Nguyễn cho mở hải cảng ở Quảng Nam để thông thương với
nước ngoài, trong đó cảng Hội An là lớn nhất, đồng thời viết thư mời các thương
nhân nước ngoài đến buôn bán. Rất nhiều thương gia Nhật Bản và phương Tây đã đến
giao thương, biến Hội An thành đô thị, hải cảng quốc tế tiêu biểu ở châu Á.
Thời gian này Hội An là đô thị rất trù phú, được nhiều nơi
trên thế giới biết đến, có rất nhiều khu phố dành cho thương gia nước ngoài.
Theo các tài liệu lịch sử, số lượng thuyền vào thương cảng đông đến nỗi
buồm của chúng được ví “như rừng tên xúm xít” (trích trong Hải ngoại ký sự của
Thích Đại Sán), còn hàng hóa thì “không thứ gì không có” và số lượng thì “cả
trăm chiếc tàu to chở cùng một lúc cũng không hết được” (trích từ Phủ biên tạp
lục của Lê Quý Đôn).
Một người Ý là Christoforo Borri cư trú ở Hội An vào năm 1618
đã mô tả về Hội An như sau:
“Hải cảng đẹp nhất, nơi tất
cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng
thuộc tỉnh Quảng Nam”.
“Người Hoa và Nhật Bản là những
thương nhân chủ yếu của chợ phiên, năm nào cũng mở và kéo dài trong bốn tháng.
Người Nhật thường đem lại 4, 5 vạn nén bạc, người Trung Hoa thì đi một thứ thuyền
buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ”.
“Do chợ này mà Quốc vương
thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc nhờ vậy cũng được nhiều lợi ích”.
Hội An trong bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ. (Ảnh từ
wikipedia.org)
Quan hệ chúa Trịnh – chúa Nguyễn
Năm 1620 chúa Trịnh vô cớ gây chiến nên chúa Nguyễn quyết định
hoàn toàn đoạn tuyệt với việc nộp cống thuế cho Đàng Ngoài.
Năm 1623, Trịnh Tùng chết, các con tranh ngôi Chúa mà làm loạn
Bắc Hà. Nhiều người hiến kế cho chúa Nguyễn nhân cơ hội này tiến đánh chúa Trịnh,
với lý do 3 năm trước chúa Trịnh vô cớ đưa quân tiến đánh vào Đàng Trong. Thế
nhưng chúa Nguyễn Phúc Nguyên nói rằng: “Ta muốn nhân cơ hội này nổi nghĩa binh
để phò vua Lê, nhưng đánh lúc người có tang là bất nhân, thừa lúc người lâm
nguy là bất vũ. Huống chi ta với Trịnh có nghĩa thông gia”.
Hào kiệt khắp nước nghe được câu này của ông liền đi theo rất
đông, trong đó nổi tiếng có Đào Duy Từ, Nguyễn Cư Trinh, giúp Đàng Trong ngày
càng hùng mạnh, cư dân đi xuống phía Nam đến tận vùng Nam Bộ.
Tháng 3/1627, chúa Trịnh Tráng thống lãnh 20 vạn đại quân
theo 2 đường thủy bộ tiến đánh Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, hội quân
ở cửa biển Nhật Lệ. Chúa Sãi cử các tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Phúc Vệ và
Nguyễn Phúc Trung đón đánh.
Quân chúa Trịnh lợi dụng ưu thế về số lượng tấn công, nhưng
không sao chọc thủng được phòng tuyến quân chúa Nguyễn. Nhờ mở cửa giao thương
với phương Tây mà quân chúa Nguyễn có được đại bác của Bồ Đào Nha uy lực rất mạnh,
đạn bắn rất ổn định, hầu như không bị tắc, tốc độ bắn nhanh hơn, khoảng cách bắn
cũng xa hơn so với đại bác cũ, khiến 20 vạn đại quân Trịnh Tráng không thể làm
gì được.
Được Đào Duy Từ hiến kế, năm 1630 chúa Nguyễn Phúc Nguyên trả
lại sắc lệnh cho chúa Trịnh Tráng đánh dấu mốc chuyển từ chính quyền địa phương
thành chính quyền độc lập.
Tự trang bị đại bác cùng quân đội hiện đại
Nhận thấy uy lực của đại bác Bồ Đào Nha, và nhằm xây dựng
quân đội hùng mạnh, chúa Nguyễn đã mời cha con người Bồ Đào Nha Jean De La
Croix từ Hội An ra Huế giúp mở xưởng đúc vũ khí đạn dược. Năm 1631, chúa Nguyễn
mở cơ sở đúc súng đại bác cùng trường bắn.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng xây dựng quân đội Hoàng Sa nhằm
bảo vệ lãnh thổ trên biển cùng quần đảo Hoàng Sa. GS.TS Nguyễn Quang Ngọc (Viện
Việt Nam học và Khoa học phát triển) trong tham luận tại Hội thảo về Chúa Nguyễn
và vương triều Nguyễn năm 2008 đã phát biểu rằng: “Chúa Nguyễn Phúc Nguyên chính là người đã sáng tạo ra một hình thức
khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông
hết sức độc đáo là đội Hoàng Sa”.
Phố cổ Hội An với Chùa Cầu phía sau. (Ảnh từ wikipedia.org)
Cuộc di dân lịch sử của người Việt
Do phải đối phó với sức mạnh từ Xiêm La (Thái Lan ngày nay),
Quốc Vương Cao Miên muốn đặt quan hệ thông gia với chúa Nguyễn, từ đó công nữ
Ngọc Vạn đã trở thành Hoàng hậu của vua Chey Chettha II. Chúa Nguyễn gửi quân
cùng vũ khí sang giúp Cao Miên đẩy lui các cuộc xâm lược của Xiêm La. Quân chúa
Nguyễn dùng đại pháo do người Bồ Đào Nha giúp đúc được khiến quân Xiêm La kinh
hoàng phải rút lui.
Chúa Nguyễn cũng đã thương lượng với vua Chey Chettha II và
được nhượng lại 1 dinh điền ở Mô Xoài (gần Bà Rịa ngày nay), đồng thời chúa
Nguyễn được phép lập hai thương điểm là Prei Nokor (thuộc khu Chợ Lớn, Sài Gòn
sau này) và Kas Krobey (khu vực Bến Nghé, Sài Gòn sau này) để thu thuế.
Đồng thời người Việt ở Đàng Trong được phép đến sinh sống ở
vùng Thủy Chân Lạp (tức Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam và miền Nam
Campuchia ngày nay). Chúa Nguyễn cũng cho quân đến đóng ở vùng Prei Nokor (tức Sài Gòn, Biên Hòa, Bà Rịa) của Chân Lạp nhằm
bảo vệ người Việt làm ăn buôn bán sinh sống, đồng thời giúp Cao Miên khi có biến.
Nhờ đó chỉ trong một thời gian ngắn người Việt xuất hiện rất
đông ở Cao Miên, khu vực ngày này là Đồng bằng sông Cửu Long, Sài Gòn, Biên
Hòa, Bà Rịa. Miền Nam Campuchia cũng rất đông người Việt sinh sống. Đây là tiền
đề quan trọng cho việc mở rộng lãnh thổ về sau này.
Nguyễn Cư Trinh, người phò tá cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên đưa
người Việt vào Nam Bộ đã có lời tổng kết rằng:
“Đời trước lập Gia Định, tất
trước mở xứ Mỗi Xoài, rồi mở xứ Đồng Nai, để cho quân dân hoàn tụ, rồi mới mở xứ
Sài Gòn, thế là lấy ít đánh nhiều, lấn dần như tằm ăn.” (trích Phủ Biên tạp lục
của Lê Qúy Đôn).
Lăng Trường Diễn của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. (Ảnh từ
lichsunuocvietnam.com)
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên qua đời vào ngày 19/11/1635, hưởng
thọ 73 tuổi. Lăng mộ táng tại Sơn Phận, huyện Quảng Điền; sau cải táng về vùng
núi Hải Cát, Hương Trà, Thừa Thiên. Tên lăng là Trường Diễn.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên không chỉ hoàn thành tâm nguyện của
cha mở rộng cương vực lãnh thổ về phía Nam, mà còn phát triển kinh tế, mở cảng
giao thương với thế giới. Cảng Hội An được xem là lớn và tiêu biểu nhất châu Á
lúc bấy giờ, nổi tiếng trên thế giới. Quân đội của chúa Nguyễn cũng được xây dựng
hùng mạnh với vũ khí hiện đại, không chỉ đánh bại đội quân chúa Trịnh, mà còn
giúp Cao Miên đánh bại Xiêm La.
Quân đội cũng theo chân người Việt di cư xuống tận vùng Nam Bộ
nhằm bảo vệ cư dân sinh sống, giúp cuộc di dân lịch sử của người Việt xuống
phương Nam thành công tốt đẹp.
Trần Hưng
Nhận xét
Đăng nhận xét