VÀI CHUYỆN THÚ VỊ VỀ CHÓ TRONG SỬ VIỆT
VÀI CHUYỆN THÚ VỊ VỀ CHÓ
TRONG SỬ VIỆT
Chó là loài vật gần gũi trong
gia đình người Việt, lại là con vật trong “lục súc” thường xuất hiện trong sách
vở chữ Nho, nên nó có mặt rất nhiều trong sử sách Việt Nam.
1.
Từ
truyền thuyết Lạc Long Quân
Bộ truyện Lĩnh Nam chích quái,
tương truyền do danh sĩ Trần Thế Pháp viết vào thế kỷ 15 tập hợp nhiều câu chuyện
thần thoại, cổ tích, truyền thuyết Việt Nam từ thời thượng cổ, trong truyện Ngư
tinh, nối ngay sau truyền thuyết về họ Hồng Bàng, kể về sự tích Quốc tổ nước Việt
là Lạc Long Quân và Hùng Vương, đã có chó xuất hiện. Để đánh bại Ngư tinh, Hùng
Vương đã theo kế của vị Lạc hầu làm hàng nghìn lưỡi câu bằng sắt, dùng cả dây
gai các loại treo hàng trăm lưỡi câu như vậy rồi dùng dê và chó xâu vào làm mồi
vứt xuống biển để dụ cá nhưng nó tinh khôn không thể bắt giết được. Cuối cùng
vua Hùng mới đành phải lập đàn cầu khấn nhờ đức Lạc Long Quân dùng phép thần diệt
thủy quái.
Long Quân dùng gươm báu giết chết
được Ngư tinh, cắt đuôi, lột da phủ lên núi (nay là đảo Bạch Long Vĩ), còn đầu
trôi ra bể biến thành con chó ngao, Long Quân liền lấy đá ngăn bể rồi chém chó.
Cái đầu biến thành một ngọn núi (nay gọi là Cẩu Đầu Sơn), thân trôi ra ngoài Mạn
Cầu, chỗ đó nay gọi là Mạn Cầu Thủy hoặc Cẩu Đầu Thủy. Những tên gọi này ngày
nay là tên một số hòn đảo phần lớn thuộc vùng biển Đồ Sơn của thành phố Hải
Phòng và vịnh Hạ Long của tỉnh Quảng Ninh.
2.
Chó
báo điềm sinh vua Lý Thái Tổ
Đến đời vua mở đầu triều Lý - Lý
Thái Tổ, do vua sinh năm Giáp Tuất (974), nên đời sau đã sáng tác ra câu chuyện
liên quan đến chó thành điềm báo về việc vua ra đời. Chuyện được đưa vào Đại Việt
sử ký toàn thư, viết rằng: “Trước ở viện Cảm Tuyển chùa Ứng Thiên Tâm, châu Cổ
Pháp có con chó đẻ con sắc trắng có đốm lông đen thành hình hai chữ “Thiên tử”.
Kẻ thức giả nói đó là điềm năm Tuất sinh người làm thiên tử. Đến nay, vua sinh
năm Giáp Tuất lên làm thiên tử, quả là ứng nghiệm”.
Còn có truyền thuyết kể rằng bà
mẹ vua là người họ Phạm sống trong chùa, nằm mơ thấy thần chó đá và thụ thai.
Sinh con trai, bà mang đến chùa Cổ Pháp và con chó bằng đồng của chùa bỗng sủa
mừng. Sư cụ là Lý Khánh Vân cho là điềm lành, ứng vào sấm ký của chùa, rước
nuôi đứa bé và đặt tên Công Uẩn, cho mang họ của mình. Cậu bé theo học thầy Vạn
Hạnh, thành đạt, phò nhà tiền Lê làm tướng giỏi, sau lên ngôi vua.
3.
Đội
quân chó đánh giặc của Nguyễn Xí
Thời nhà Minh xâm lược nước ta,
trong cuộc kháng chiến của Lê Lợi, sử sách ghi lại có một đội quân chó rất dũng
mãnh, nhiều lần làm quân giặc kinh hồn bạt vía.
Đó là đội quân chó của Nguyễn
Xí. Nguyễn Xí quê ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, gốc người làng Cương
Gián, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Năm lên 9 tuổi, Nguyễn Xí theo anh đến làm
trong nhà Lê Lợi. Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn ghi rằng: “Vua sai Nguyễn
Xí nuôi đàn chó săn gồm hơn 100 con. Sớm chiều chia cơm cho chó ăn, ông đều
dùng chuông làm hiệu. Bầy chó theo sự điều khiển của ông, tiến thoái răm rắp”.
Khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, đội
quân chó săn của Nguyễn Xí rất hữu dụng trong quân. Những lúc nghĩa quân bị vây
hãm, hết lương thực, đàn chó đi săn thú, bắt chim về làm thức ăn. Khi xung trận,
Nguyễn Xí điều khiển bầy chó lăn xả vào trận làm quân giặc hoảng sợ. Tên tướng
Minh là Mã Kỳ, mỗi khi nghe đến đội quân khuyển của Nguyễn Xí là hết sức kinh
hãi.
Truyền thuyết còn kể rằng, Nguyễn
Xí từng dùng đàn chó thực hiện kế “thuyền cỏ mượn tên” như của Gia Cát Lượng thời
Tam Quốc. Ông cho buộc vào cổ đàn chó những chiếc đạc ngựa, ban đêm xua chó chạy
vào trại giặc Minh để phát ra tiếng kêu như cả đoàn kỵ mã tấn công. Bên ngoài,
ông cho trống thúc, quân reo, khiến quân giặc trong trại hốt hoảng tưởng bị tấn
công, nhưng không rõ binh lực của quân ta thế nào nên không dám ra đánh. Chúng
đành dùng cung nỏ bắn ra ngoài như mưa. Cứ làm như vậy đến gần sáng, nghĩa quân
thu nhặt được hàng vạn mũi tên.
4.
Đem
hình ảnh chó ra biện bạch với quân Nguyên
Trong cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên lần thứ 2 (1285), khi quân đội hai bên dàn trận hai bên bờ sông Hồng,
để thăm dò sức mạnh đối phương, vua Trần Nhân Tông sai viên Chi hậu cục thủ là
Đỗ Khắc Chung giả mang thư sang trại giặc, vào trướng Ô Mã Nhi để đưa thư. “Đại
Việt Sử ký toàn thư” ghi lại đoạn đối thoại của Ô Mã Nhi và Đỗ Khắc Chung đã được
chép tỉ mỉ:
“Ô Mã Nhi hỏi: “Quốc Vương ngươi
vô lễ, sai người thích chữ “Sát Thát”, khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to lắm”.
Khắc Chung đáp: “Chó nhà cắn người
lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi. Quốc
Vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không có?”, rồi vạch
áo ra cho quân Nguyên xem, chứng minh mình không xăm chữ “Sát Thát”.
Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi bảo
các tướng rằng: “Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ
nó xướng là Chích, không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói “Chó nhà cắn người”,
thật giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi,
chưa dễ mưu tính được”.
Nói xong, Ô Mã Nhi sai quân đuổi
theo Đỗ Khắc Chung toan bắt lại nhưng không kịp. Vì hành động dũng cảm này, mà
vua Trần Nhân Tông đã khen Khắc Chung rằng: “Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối
lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế”.
5.
Thần
khuyển đại tướng quân của vua Gia Long
Nếu trong truyền thuyết về vua
Lê Lợi, khi bị giặc Minh truy đuổi, có đàn cáo chạy bụi rậm ra cứu mạng vua,
thì đến truyền thuyết về vua đầu triều Nguyễn là Nguyễn Ánh, loài vật cứu mạng
ông là con chó.
Cuốn sách “Nguyễn Phúc tộc
đế phả tường giải đô”̀, ghi chép và lý giải tất cả những chuyện
liên quan đến hoàng tộc, có nói về sự tích này. Cứu mạng vị chúa trẻ, hậu duệ
sống sót cuối cùng của các chúa Nguyễn trước sự truy đuổi của quân Tây Sơn là 4
con chó Phú Quốc, và chúng cứu mạng Nguyễn Ánh những hai lần. Một lần, đàn chó
cứu chúa Nguyễn Ánh ở dốc Gành Đỏ (vùng Bằng Lăng, Phú Yên), một lần, ở vùng Cà
Tang (Quế Sơn, Quảng Nam) hiện nay.
Khi Nguyễn Ánh phải chui vào
một bụi rậm, 4 con chó vây quanh bảo vệ. Khi quân Tây Sơn nhìn thấy bụi rậm,
họ dùng giáo chọc vào để kiểm tra. Một con chó đã lấy thân mình đỡ
ngọn giáo đâm vào chúa, 3 con còn lại chạy ra đánh lạc hướng quân Tây Sơn,
giúp Nguyễn Ánh thoát nạn. Theo quyển sách nói trên, sau khi lên ngôi, vua Gia
Long bình xét công trạng của các tướng sĩ, đã không quên sắc phong cho 4
con chó Phú Quốc danh hiệu: “Cứu khổn phò nguy Tá quốc huân thần
Thần khuyển đại tướng quân”. Sau khi chúng qua đời, ông đã cho an táng
và lập miếu thờ trọng thể.
6.
Đền
thờ chó ở hồ Trúc Bạch?
Ở trên hồ Trúc Bạch, đoạn cuối
đường Thanh Niên, Hà Nội hiện nay, có một hòn đảo nhỏ, trên có một ngôi đền
tương truyền có từ lâu. Sách “Tây Hồ chí“ (có ý kiến cho rằng tác giả là Đốc học
Dương Bá Cung), viết rằng: “Đó là đền Cẩu Nhi tức là chó con, mẹ là Cẩu Mẫu. Đền
ở trên bến Châu Chử tại góc hồ (Đời Trần gọi đây là bến Thần Cẩu). Tương truyền
rằng, ở chùa Thiên Tâm trên núi Ba Tiêu, châu Bắc Giang, có một con chó trắng bụng
chửa bỗng bơi qua sông Cái, rồi lên ở trên núi Khán. Sau đó đẻ được một chó
con. Mọi người lấy làm lạ. Đến năm Nhâm Tuất, hai chó đều hóa. Khi Lý Công Uẩn
dời đô ra Thăng Long, nghe chuyện này, bèn bảo: “Đó là chó thần”. Rồi sai dựng
miếu thờ chó mẹ trên núi, miếu thờ chó con ở trên hồ”.
Đề tài đền thờ này có phải thờ
thần chó hay không đã làm dấy lên một cuộc tranh luận kéo dài trong suốt nhiều
năm qua. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, đền Cẩu Nhi không có thật trong lịch sử
và cuốn “Tây Hồ chí” không có cơ sở tin cậy vì không rõ tác giả là ai. Do đó hiện
nay, chính quyền thành phố Hà Nội đã cho tu sửa, dựng cầu đá vào đền, đổi tên
thành Đền Thủy Trung Tiên, tên hiệu bà Mẫu Thoải, tức vị chúa cai quản sông nước
trong đạo thờ Mẫu.
Nhiều tài liệu lịch sử cũng ghi
chép việc thờ cúng chó đá. Như trong cuốn “Lịch triều hiến chương loại chí”, ở
phần “Dư địa chí” ghi chép về trấn Thanh Hoa, nhà bác học Phan Huy Chú viết
“Nghi môn ở điện Lam Kinh có hai con chó đá rất thiêng”.
LÊ TIÊN LONG
Nhận xét
Đăng nhận xét