Kỳ 167-ĐẾ QUỐC HÙNG BÁ ĐÔNG NAM Á 5 LẦN THẢM BẠI TRƯỚC ĐẠI VIỆT [P.1]
Kỳ 167
ĐẾ QUỐC HÙNG BÁ ĐÔNG NAM Á
5 LẦN THẢM BẠI TRƯỚC ĐẠI VIỆT
[Phần 1]
Bản
đồ Đế quốc Ankor so sánh với Đại Việt và Chiêm Thành.
Đế quốc Khmer hay Đế quốc Angkor là đế quốc rộng lớn nhất phía Nam và
Đông Nam Á với diện tích lên đến 1,2 triệu km², bao gồm cả Miến Điện (Myanmar),
Campuchia, Lào, Thái Lan, Malaysia, và vùng Nam Bộ thuộc Việt Nam ngày nay.
Trong khi đó, diện tích của Đại Việt thời nhà Lý chưa đến 111.000 km².
Nếu so về diện tích thì Đại Việt quá bé nhỏ, nhưng nền văn minh Đại Việt
thời điểm đó không hề thua kém. Thời nhà Lý thuộc giai đoạn phát triển rực rỡ
trong sử Việt với niềm tin tín ngưỡng là nền tảng cho sự phát triển.
Đế quốc
Angkor cực thịnh
Di sản lớn nhất của đế quốc Angkor là kinh đô Angkor Wat. Năm 2007 các
nhà nghiên cứu trên thế giới đã kết luận rằng Angkor là thành phố thuộc thời kỳ
tiền công nghiệp lớn nhất thế giới với diện tích 1.150 dặm vuông. Thành phố cạnh
tranh tiêu chí này gần nhất với Angkor là thành phố Tikal của văn hóa Maya ở
Guatemala, có tổng diện tích khoảng 50 dặm vuông.
Năm 1113, vua Suryavarman II của đế quốc Angkor lên ngôi, đây được xem
là một trong những vị Vua vĩ đại nhất của đế quốc này. Kinh đô Angkor Wat được
khởi công xây dựng, là quần thể kiến trúc mang tầm cỡ thế giới đương thời.
Với sự hưng thịnh của mình, vua Suryavarman II liên tiếp tổ chức những
cuộc hành quân xâm lấn các nước láng giềng để bành trướng lãnh thổ, vùng đất
phía tây Chiêm Thành cũng liên tục bị tấn công cướp phá. Tham vọng bành trướng
của vua vua Suryavarman II hầu như không có điểm dừng, và Đại Việt cũng nằm
trong số đó.
Angkor Wat (Ảnh từ Bjørn Christian
Tørrissen – wikipedia.org)
Đại Việt cực thịnh
Lúc này Đại Việt đặt
dưới sự cai trị của vua Lý Nhân Tông. Dù đất nước bị kẹt giữa gọng kìm là liên
minh Tống – Chiêm, nhưng dưới sự phò tá của Lý Thường Kiệt, Đại Việt đã phá Tống
– bình Chiêm, phá tan liên minh gọng kìm này. Nhà Vua là người mộ Đạo, dùng Phật
Pháp để giáo hóa dân chúng, khiến Giang Sơn thái bình, Xã Tắc ổn định.
Giáo dục Đại Việt được
phát triển mạnh. Năm 1075 đánh dấu kỳ thi khoa bảng đầu tiên bằng khoa thi “Tam
trường” để chọn Minh kinh Bác học, Trạng nguyên Lê Văn Thịnh chính là Trạng
nguyên khoa bảng đầu tiên của Đại Việt.
Năm 1076, vua Lý Nhân
Tông cho xây dựng trường Quốc Tử Giám bên cạnh Văn Miếu, đây được xem là trường
đại học đầu tiền của Việt Nam. Rất nhiều nhân tài giúp Giang Sơn Xã Tắc giàu mạnh
đều xuất thân từ ngôi trường này. Đại Việt nhờ đó mà phát triển cực thịnh, sẵn
sáng chống trả những cuộc xâm lăng của đế quốc Khmer hiếu chiến.
Quần thể Văn Miếu – Quốc Tử Giám.(Ảnh:
Flickr, Manhhai)
Lần tấn công thứ nhất
Ngày 4 tháng Chạp năm
Đinh Mùi 1127, vua Lý Nhân Tông mất, Lý Thần Tông lên nối ngôi khi mới 12 tuổi.
Nghe tin vua Đại Việ mất, vua mới lại còn nhỏ tuổi, vua Suryavarman II cho rằng
thời cơ đã đến liền nhanh chóng cất quân chinh phục Đại Việt.
Tháng 2/1128, Đế quốc
Angkor huy động hơn 2 vạn quân tiến đánh Đại Việt. Quân Khmer tiến đến bến Ba Đầu,
châu Nghệ An.
Nghệ An là vùng biên
giới phía nam nên được bố trí phòng thủ kỹ càng, trước sự tấn công của quân
Khmer, quân Đại Việt Nghệ An vừa ra sức phòng thủ vừa cho báo tin gấp về Kinh
thành. Vua sai Thái phó Lý Công Bình lĩnh cấm quân (quân tinh nhuệ) phối hợp
cùng quân ở châu Nghệ An đánh giặc.
Đại Việt Sử ký Toàn
thư có ghi chép rằng:
“Mậu Thân, Thiên Thuận năm thứ 1[1128]. Mùa
xuân, tháng giêng… Ngày Giáp Dần, hơn hai vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu
ở châu Nghệ An. Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó Lý Công Bình đem các quan chức
đô cùng người châu Nghệ An đi đánh”.
Chỉ chưa đầy 1 tháng,
Lý Công Bình đã đánh quân Khmer tan tác, bắt được tướng giặc, cho người báo tin
mừng về Kinh thành.
Vào ngày đinh mão
tháng 2 năm 1128, khi các quan đang dâng biểu mừng Vua mới lên ngôi cũng là
ngày nhận tin báo thắng trận từ Nghệ An.
Lần tấn công thứ hai
Bị thua đau ở Đại Việt,
vua Suryavarman II quyết tâm tiến đánh phục thù.
Sau hơn nửa năm chuẩn
bị, tháng 8/1128 đế quốc Angkor huy động đội quân đông hơn lần trước nhiều lần
cùng 700 chiến thuyền tiến đánh Đại Việt. Quân Khmer tiến đến hương Đỗ Gia thuộc
châu Nghệ An (nay thuộc Hà Tĩnh).
Phía Đại Việt đã đoán
trước quân Khmer thua trận sẽ lại tiến sang, nên đã cử tướng Dương Ổ ở châu Nghệ
An, Nguyễn Hà Viêm đóng ở Thanh Hóa đưa quân đón đánh, quân Khmer một lần nữa bị
đánh tan.
Dù thua trận, nhưng
vua Suryavarman II muốn ỷ thế nước lớn gửi tới vua Lý Thần Tông một phong quốc
thư, yêu cầu Đại Việt cử sứ giả đến, nhưng phía Đại Việt không trả lời. Điều
này cho thấy Đại Việt không hề sợ Angkor dù Đế quốc này thu phục nhiều nước
khác khiến lân bang phải e sợ.
Sau thất bại này, vua
Suryavarman II không hề từ bỏ ý định Đánh Việt, để chuẩn bị cho lần tấn công thứ
3 này, Đế quốc Khmer phải mất 4 năm, phối hợp cùng quân Chiêm Thành cùng tiến
đánh Đại Việt.
Trần Hưng
Nhận xét
Đăng nhận xét