CON CÓC LÀ MỘT BÀI THƠ HAY? - Nguyễn Hưng Quốc
CON CÓC
LÀ MỘT BÀI THƠ HAY?
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi
Con cóc nhảy đi
Yêu
thơ, thuộc khá nhiều thơ, tôi có thói quen hay đọc thơ, khe khẽ, một mình, nhất
là vào những buổi chiều, đi làm về, nhìn nắng ngẩn ngơ vàng, lòng bỗng dưng,
nói như Xuân Diệu, hiu hiu khẽ buồn. Những lúc ấy, dù không mong, thơ vẫn
hiện về, thầm thì, như một lời đồng điệu. Thường là thơ của Xuân Diệu, Huy Cận,
Hàn Mặc Tử và nhiều nhà thơ khác, trước năm 1945; những bài thơ ngọt ngào
vô hạn, đọc lên, ngỡ có hương thơm thoang thoảng quanh mình và ngỡ lòng mình,
giống như Hồ Dzếnh ngày nào, hoá thành rừng, thành mây, đầy một niềm
chiều.
Thế
nhưng, lạ, dễ đã mấy năm rồi, không hiểu tại sao, càng ngày tôi càng mất dần
cái thói quen thơ mộng ấy. Tôi vẫn đọc thơ nhưng hầu như bài thơ nào đang đọc
dở dang cũng đều bị cắt ngang bởi một bài thơ rất vô duyên: thơ “Con cóc”. Từ
đâu đó, tận trong tiềm thức, bài thơ “Con cóc” nhảy chồm ra, giành giật, chen
lấn, xô đẩy, cuối cùng, thật oái oăm, bao giờ nó cũng thắng thế.
Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao...
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra...
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao...
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra...
Cứ
thế. Có thể nói, suốt mấy năm nay, cơ hồ tôi không đọc trọn vẹn một bài thơ nào
ngoài bài thơ “Con cóc”. Bận bịu quá, quên đi thì thôi, còn hễ nhớ đến thơ thì
bao giờ cũng thế, bài thơ “Con cóc” lại hiện ra, sừng sững, án ngữ hết mọi nẻo
đường, không cho bài thơ nào khác có được cái quyền được ngâm nga nữa. Quái.
Mà
quái thật. Đâu phải tôi không biết đó là một bài thơ dở, cực kỳ dở, hơn nữa,
với người Việt Nam, còn là điển hình của cái dở nói chung. Mỗi lần bắt gặp bài
thơ nào kém cỏi, chỉ có vần điệu ê a mà tình ý hoặc rỗng tuếch hoặc nhạt nhẽo,
người Việt chúng ta - trong đó có tôi, dĩ nhiên - thường có thói quen phán:
“Thơ con cóc!” “Thơ Con cóc”, do đó, được coi là lời chê bai nặng nề nhất, một
sự phủ định hoàn toàn. Tôi biết. Biết vậy mà vẫn bị nó ám ảnh mãi. Xua, nó
không đi. Nó cứ phục kích đâu đó, trong một ngóc ngách nào của tâm hồn, chực có
cơ hội, những lúc tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn, lại hiện ra, thoạt
đầu, như một sự nghịch ngợm, sau, dần dần, thật lạ lùng, cứ như một lời đồng
điệu.
Vâng,
như một lời đồng điệu. Tôi mơ hồ cảm thấy bài thơ “Con cóc” đã nói hộ giùm tôi
bao nhiêu niềm u uẩn, cứ day dứt trong lòng. Những nỗi niềm ấy nhoi nhói đòi
phát ngôn, đòi tìm tri âm mới sau khi đã giã từ những người bạn cũ, rất mực
hiền lành, chỉ quen một điệu ví dầu cầu ván đóng đinh... hay ôi
nắng vàng sao mà nhớ nhung...
Từ
sự cảm nhận mơ hồ này, dần dần, tôi khám phá ra một điều, là, trái hẳn những
định kiến quen thuộc của chúng ta lâu nay, bài thơ “Con cóc” không chừng là một
bài thơ hay. Mà đâu chỉ có một mình tôi nhận ra điều đó. Dường như, tự thâm tâm
và một cách thiếu tự giác, rất nhiều, nếu không nói là hầu hết người Việt Nam
đều công nhận như thế. Có hai chứng cứ:
Một
là, mọi người đều ghi khắc mãi bài thơ ấy vào trí nhớ.
Hai
là, mọi người đều coi nó là điển hình của cái dở nói chung.
Trong
số những bài thơ khuyết danh tại Việt Nam, dễ không có bài thơ nào được nhiều
người nhớ như bài thơ “Con cóc”. Ngay cả những người hoàn toàn hờ hững với thơ
ca cũng thuộc lòng bài thơ ấy. Trong ngôn ngữ của chúng ta, chữ thơ “Con cóc”
được dùng để chỉ sự nôm na, cọc cạch cũng như chữ Hoạn Thư chỉ sự ghen tuông,
chữ Thúc Sinh chỉ sự sợ vợ, chữ Tào Tháo chỉ sự gian hùng.
Hai
sự kiện này hoàn toàn mâu thuẫn với những lời lẽ bỉ thử chúng ta dành cho bài thơ
“Con cóc” vì lý do giản dị: một tác phẩm văn học đã trở thành điển hình và được
mọi người, từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ thời đại này qua thời đại khác,
ghi nhớ thì không thể nào dở được. Trong khi cái dở, nói như Hoài Thanh, “không
tiêu biểu gì hết” (1), điển hình, một thuật ngữ quen thuộc trong trào lưu Tân
cổ điển, được Engels và sau đó, giới nghiên cứu văn học Mác-xít mượn lại,
là cái gì có tính khái quát cao, thể hiện bản chất sự vật, là đại diện cho số
đông và do đó, chỉ có thể là kết quả của tài hoa và trí tuệ. Hạng người đểu giả
và đồi bại trong tình yêu bao giờ cũng nhan nhản trong cả cuộc đời lẫn văn
chương ở mọi thời nhưng phải đợi đến ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du, trong
vài câu, với vài nét chấm phá, mới thành một điển hình: Sở Khanh. Hạng người
hợm mình và láu cá hẳn không hiếm trong xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những
buổi giao thời, được nhiều nhà văn quan tâm phản ánh, nhưng phải đợi đến ngòi
bút sắc sảo của Vũ Trọng Phụng nó mới thành một điển hình: Xuân tóc đỏ.
Khuôn mặt “hao hao như mặt lợn”, trên đó gắn cái mũi “vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ,
vừa sần sùi như vỏ cam sành”, một đôi môi như “miếng thịt trâu xám ngoách” phải
nhờ Nam Cao mới trở thành một điển hình cho cái xấu nói chung, cái Xấu
viết hoa: Thị Nở.
Về
phương diện giá trị điển hình, hình tượng con cóc không hề thua kém hình tượng
Sở Khanh, Xuân tóc đỏ hay Thị Nở. Về phương diện sức sống, nó cũng đã vượt qua
bao nhiêu thử thách, từ đời này qua đời khác, cứ tồn tại hoài. Không ngoa chút
nào nếu gọi thơ “Con cóc” theo cách nói quen thuộc đã thành sáo ngữ của chúng
ta là bài thơ “vượt thời gian”. Nhà văn Nhất Linh, trong quyển Viết và đọc
tiểu thuyết, đã coi tính chất “vượt thời gian” là cơ sở chắc chắn nhất để xác
định một tác phẩm lớn. Nhà thơ Xuân Diệu có cách ví von khá thú vị:
Chiếc
thuyền thơ thả trong biển thời gian, lúc đầu mới hạ thuỷ còn chao lên chao
xuống, gió bão từng kỳ làm chòng đi chành lại, cứ cho thăng trầm mỗi đợt là mất
hai mươi năm đi, thì trải qua năm đợt hai mươi năm, mà vẫn cứ giong lèo giương
buồm phơi phới, như vậy có thể nói được rằng: từ đây vào bất hủ được rồi. (2)
Bài
thơ “Con cóc” ra đời đã lâu, lâu lắm, được Trương Vĩnh Ký sưu tập, in
trong quyển Chuyện đời xưa xuất bản lần đầu tiên năm 1866, cho đến
bây giờ, vượt xa thời hạn Xuân Diệu đã nêu, vẫn còn âm vang trong lòng mọi
người, còn gì mà ngờ nữa?
Tôi
đoán, sẽ có người biện bạch, cho hiện tượng “vượt thời gian” của bài thơ “Con
cóc” xuất phát từ những nguyên nhân khác, không phải là giá trị nghệ thuật của
nó, chẳng hạn, vì nó ngắn nên dễ nhớ, vì nó dở đến cực độ của cái dở hoặc vì nó
gắn liền với một câu chuyện tiếu lâm nổi tiếng (3). Theo tôi, những luận cứ này
đều không vững. Đồng ý ngắn thì dễ nhớ nhưng không phải cứ hễ ngắn là được
người ta nhớ. Có khối bài thơ ngắn hơn hoặc bằng bài thơ “Con cóc”. Thơ 14 chữ
của Thi Vũ hoặc thơ mini của Trần Dần, chẳng hạn. Còn cái dở thì hiếm gì,
đầy dẫy, có bài nào được nhớ đâu? Trong ngôn ngữ xưa nay, chúng ta thường nói:
làm thơ hay như Đỗ Phủ, phóng túng như Lý Bạch, giản dị như Bạch Cư Dị, đẽo gọt
kỳ khu như Giả Đảo, nhưng không hề có cách nói nào đại loại như làm thơ dở như
ông A bà B. Tuyệt đối không. Đã dở thì bị diệt vong, bị tiêu tán tức khắc,
không còn lại gì cả, kể cả một cái tên, đừng nói gì là nguyên vẹn một tác phẩm.
Bài thơ “Con cóc” được tồn tại cũng không phải nhờ câu chuyện tiếu lâm gắn liền
với nó nếu không muốn nói, ngược lại, câu chuyện tiếu lâm ấy sở dĩ còn được lưu
truyền là nhờ bài thơ “Con cóc”. Có ba lý do để khẳng định điều này: một là,
nếu bỏ bài thơ đi, câu chuyện sẽ trở thành hoàn toàn nhảm nhí và vô nghĩa; hai
là, đã nhiều người dùng lại câu chuyện ấy, chỉ thay đổi những lời thơ xướng
hoạ, có những lời thơ tục, vui và ngộ nghĩnh hơn bài thơ “Con cóc” nhiều (4),
song tất cả đều rơi hút vào quên lãng; ba là, rất nhiều người chỉ nhớ bài thơ
“Con cóc” nhưng lại không nhớ được câu chuyện tiếu lâm kia, nghĩa là, nói cách
khác, với họ, bài thơ “Con cóc” được ghi nhận như một tác phẩm độc lập.
Như
vậy, có thể nói, qua việc nhớ bài thơ “Con cóc”, việc coi thơ “Con cóc” như là
một điển hình của cái dở, từ trong vô thức, chúng ta đã thừa nhận giá trị của
nó, đã linh cảm được đó là một bài thơ hay. Song có lẽ vì cái hay của nó quá
lạ, khác hẳn những cái hay chúng ta quen thưởng thức, cho nên lý trí chúng ta
tự nhiên đâm ngờ vực, cuối cùng, lý trí thắng thế: bài thơ bị liệt vào loại dở.
Sự hàm oan của bài thơ “Con cóc”, do đó, gắn liền với sự hàm oan của một quan
điểm thẩm mỹ. Khôi phục giá trị của bài thơ “Con cóc” cũng có nghĩa là đặt
thành nghi vấn đối với những quan điểm thẩm mỹ quen thuộc, đang giữ vai trò
thống trị trong sinh hoạt văn học nghệ thuật lâu nay.
Chú
thích:
1.
Hoài Thanh & Hoài Chân (1967), Thi nhân Việt Nam, Thiều Quang
(tái bản), Saigon, tr. 329.
2.
Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập 2, nxb Văn học,
Hà Nội, tr. 227.
3.
Câu chuyện có thể tóm tắt đại khái như sau:
Có
ba anh học trò dốt, một hôm, nhìn một con cóc, nổi hứng rủ nhau làm thơ vịnh.
Anh thứ nhất đọc:
Con
cóc trong hang / Con cóc nhảy ra.
Anh
thứ hai tiếp:
Con
cóc nhảy ra / Con cóc ngồi đó.
Anh
thứ ba nối lời:
Con
cóc ngồi đó / Con cóc nhảy đi.
Làm
xong bài thơ, tự trầm trồ khen mình giỏi, rồi sực nhớ lời người xưa nói kẻ tài
hoa thường mệnh yểu, ba anh rất lo, sai tiểu đồng ra phố mua sẵn ba cái quan
tài. Ngoài phố, nghe lời tiểu đồng kể lại, một khách qua đường dặn:
-
Mày mua luôn giùm tao một cái nữa, để lỡ cười quá, tao chết mất.
4.
Ví dụ lời thơ trong truyện “Thơ cái chuông”:
Chùa
này có cái chuông
Đánh tiếng kêu boong boong
Treo lên như cái vại
Ấy nó vốn bằng đồng.
hoặc trong truyện “Thơ con ngựa”:
- Chậu nước thả cây kim
Cha tôi cưỡi ngựa chạy như chim
Chạy đi chạy lại cây kim chưa chìm.
- Lò than để cái lông
Cha tôi cưỡi ngựa chạy như giông
Chạy đi chạy lại, cái lông chưa hồng.
- Mẹ tôi xáng cái địt
Cha tôi phi ngựa chạy như hít
Chạy đi chạy lại cái đít mẹ tôi chưa khít.
Đánh tiếng kêu boong boong
Treo lên như cái vại
Ấy nó vốn bằng đồng.
hoặc trong truyện “Thơ con ngựa”:
- Chậu nước thả cây kim
Cha tôi cưỡi ngựa chạy như chim
Chạy đi chạy lại cây kim chưa chìm.
- Lò than để cái lông
Cha tôi cưỡi ngựa chạy như giông
Chạy đi chạy lại, cái lông chưa hồng.
- Mẹ tôi xáng cái địt
Cha tôi phi ngựa chạy như hít
Chạy đi chạy lại cái đít mẹ tôi chưa khít.
Nhận xét
Đăng nhận xét