BÀI THƠ CON CÓC HAY Ở CHỖ NÀO? - Nguyễn Hưng Quốc
BÀI THƠ CON CÓC
HAY Ở CHỖ NÀO?
Bài
thơ “Con cóc” hay ở chỗ nào?
Trước
hết và có lẽ cũng hiển nhiên hơn hết, đó là bài thơ hay nhất trong tất cả những
bài thơ miêu tả cái dở, cái kém nghệ thuật và kém thẩm mỹ. Ở mức độ nào đó, có
thể coi thơ “Con cóc” cũng tương tự bức chân dung Thị Nở của Nam Cao. Nếu Thị
Nở là điển hình của cái Xấu, thơ “Con cóc” sẽ là điển hình của cái Dở. Chỉ
riêng ở khía cạnh này, thơ “Con cóc” đã là một cái gì khá mới mẻ và đầy táo
bạo, khác hẳn mỹ học truyền thống vốn đồng nhất cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật
với cái đẹp của đối tượng được tác phẩm nghệ thuật miêu tả, từ đó, hình thành
một lối đi độc đạo trong sáng tác: mọi người đều chăm chăm chọn những nhân vật
đẹp, những khung cảnh đẹp. Văn học dân gian và tiểu thuyết thoát ly ra khỏi
quan điểm hẹp hòi này khá sớm có lẽ do bản chất dân chủ của chúng. Thơ cứ đắm
đuối mãi trong cõi mộng mơ. Cái xấu, cái tầm thường bị gạt qua một bên, trở
thành lãnh địa dành riêng cho thơ trào phúng.
Ngay
trong giới hạn của thơ trào phúng, cho đến nay, người ta cũng chỉ thành công
trong việc khắc hoạ những cái xấu theo nghĩa đạo đức học hoặc xã hội học, tức
những nhân vật, những sự kiện lố bịch, nhố nhăng, chướng tai gai mắt, nhưng lại
không thành công trong việc miêu tả cái xấu theo nghĩa thẩm mỹ học. Tất cả
những bài thơ phê phán cái dở đều... khá dở. Còn lại, chỉ còn lại trong suốt
lịch sử văn học Việt Nam, hai câu thơ này của Hồ Xuân Hương:
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông
Chúng bảo nhau rằng: ấy ái uông.
Chúng bảo nhau rằng: ấy ái uông.
Nhưng
Hồ Xuân Hương, trong hai câu thơ này, không có chủ tâm nói về cái dở. Bà chỉ
nhằm chế diễu sự bất tài mà thôi.
Như
thế, có thể coi bài thơ “Con cóc” là bài thơ duy nhất thành công trong việc nêu
bật đặc điểm của những bài-thơ-thị-nở vốn ê
hề, xưa cũng như nay, trong cũng như ngoài nước.
Tuy
nhiên, giá trị bài thơ “Con cóc” không phải chỉ có như vậy. Đọc bài thơ một
cách nghiêm chỉnh như đọc một bài thơ trữ tình và quên đi câu chuyện tiếu lâm
ngớ ngẩn chung quanh nó, chúng ta sẽ phát hiện ra một số điều rất lạ.
Trước
hết, về phương diện kết cấu, bài thơ rất ngắn, chỉ có sáu câu, lại được cắt ra
làm ba đoạn. Câu đầu của đoạn sau lặp lại nguyên vẹn câu cuối của đoạn trước.
Thành ra, trừ câu đầu và câu cuối, tất cả các câu thơ còn lại đều xuất hiện hai
lần, cách nhau một quãng ngắt hơi, một quãng im lặng dài vì là thuộc hai đoạn
thơ khác nhau. Cái quãng ngắt hơi ấy tạo ra cảm giác nghiêm trang, trịnh trọng
cho cái động tác được miêu tả. Đây chỉ là một kỹ thuật thông thường khi kể
chuyện, đặc biệt những chuyện có vẻ ly kỳ, rùng rợn. Thế nhưng, khác với các
câu chuyện ma, chẳng hạn, sau mỗi lần người kể lặng im để tạo tâm thế căng
thẳng, hồi hộp cho người nghe hoặc người đọc là một chi tiết bất ngờ, hoàn toàn
bất ngờ, bài thơ “Con cóc”, ngược lại, sau mỗi lần ngắt hơi, lại lặp lại nguyên
văn những điều đã nói. Điều này tạo nên một cảm giác nghịch lý: nó vừa nghiêm
trang, trịnh trọng lại vừa rất nhàm, rất nhảm.
Tính
chất nghịch lý ấy lại được nhìn thấy ở một phương diện khác: hình tượng “con
cóc”, lặp đi lặp lại sáu lần, chiếm nửa số lượng từ vựng trong bài, luôn luôn
đứng làm chủ ngữ trong mọi câu thơ, nổi bật, uy nghi, vừa như một tượng đài lại
vừa như một quyền lực. Nửa số từ vựng còn lại chỉ vừa đủ để diễn tả bốn động
tác căn bản của con cóc: ở trong hang, nhảy ra, ngồi lại và cuối cùng, nhảy đi.
Những động tác này không những nhàm, nhảm mà còn vô nghĩa nữa. Sự vô nghĩa này
lại được cố tình trình bày một cách trịnh trọng: yếu tố hài hước của bài thơ
được khơi dậy từ đây; lý do chính khiến thơ “Con cóc” bị coi là điển hình của
cái dở nằm ở đây. Và cũng từ đây, chúng ta thấy được chủ đề của bài thơ: nó
không phải là bài thơ tả con cóc mà, qua con cóc, bài thơ nói về những sự
trịnh-trọng-vô-nghĩa.
Sự
kết hợp giữa hai yếu tố trịnh trọng và vô nghĩa góp phần mở rộng trường liên
tưởng của bài thơ: với loài cóc, chỉ có thể có sự vô nghĩa chứ không có sự
trịnh trọng. Trịnh trọng là khái niệm dùng cho con người, một loài vật có trí
tuệ và khả năng tự giác để gán cho hành động của mình một giá trị nào đó có khi
chính nó không có.
Bài
thơ “Con cóc”, như thế, đang nói về con người. Về tôi. Về chị. Về anh. Về tất
cả chúng ta. Trong cuộc đời, chúng ta làm bao nhiêu công việc, đôi khi, một
cách cực kỳ nghiêm cẩn. Chúng ta đắn đo trước khi khởi sự. Đã đành. Chúng ta
còn có thói quen tự chiêm ngưỡng mình lúc đang hành động. Chúng ta tự khoác lên
chúng ta cơ man những hào quang lấp lánh. Chúng ta lạm dụng tính từ để miêu tả,
để tô vẽ việc làm của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta chỉ sống với sự diễn dịch
về cuộc đời chứ không phải với chính cuộc đời. Huyền thoại lên ngôi. Ảo ảnh che
khuất hiện thực.
Và
cả chúng ta nữa, liệu chúng ta có thoát khỏi sự diễn dịch về hành động bỏ nước
ra đi của chúng ta để nhìn thẳng vào thực tế của cuộc đời? Bài thơ “Con cóc”
nhắc nhở chúng ta một sự thật: cuộc đời là cái nó là chứ không phải cái nó được
nghĩ là. Bỏ hết những tính từ lộng lẫy, những sự diễn dịch đầy chủ quan, và do
đó, đầy ảo tưởng, cuộc đời nào cũng chỉ còn lại vài động tác căn bản, đại khái
nhảy vào, nhảy ra, thế thôi. Ừ, thì cuối cùng cũng chẳng ra làm sao cả. Ở trong
nước nhảy vọt qua Indonesia; từ Indonesia nhảy vọt qua Pháp, rồi từ Pháp lại
nhảy vọt qua Úc, tưởng làm được điều gì ghê gớm lắm; té ra, không, chỉ ngồi ỳ
một chỗ với áo cơm, với nợ nần, với mộng tưởng, với nhớ nhung lan man, chờ một
ngày lại nhảy đi nữa.
Mà
đi đâu? Bài thơ mở ra bằng một không gian hẹp, xác định và không chừng ấm áp
lắm: cái hang. Các động từ kế tiếp đều là những động từ chỉ phương hướng, rõ
ràng: nhảy ra, ngồi đó. Ở câu cuối cùng, bài thơ đóng lại bằng một động từ
không phương hướng để mở ra một không gian vô định: nhảy đi. Đi đâu? Ai mà
biết. Chỉ nhảy đi. Vậy thôi. Bể vô tận sá gì phương hướng nữa (Vũ
Hoàng Chương). Trời đất bao la, ai hơi đâu theo dõi cóc làm gì. Khác với tất cả
những từ ở trên kết thúc bằng những nguyên âm mở (a/o), động từ “nhảy đi” kết
thúc bằng một nguyên âm hẹp, hẹp nhất trong các nguyên âm: i. Nó gợi nhớ cái âm
hao áo não ê chề trong thơ của Tú Xương ngày nào:
Tấp tểnh người đi, tớ cũng đi
Cũng lều cũng chõng cũng vô thi
(Đi thi)
Cũng lều cũng chõng cũng vô thi
(Đi thi)
Bụng buồn còn biết nói năng chi
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi
(Thi hỏng)
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi
(Thi hỏng)
Con
đường đi vào cõi Hư không mênh mông và tịch lặng, như thế, lại là một con đường
hẹp. Và ngậm ngùi. Vô cùng ngậm ngùi.
Nhận xét
Đăng nhận xét