TỪ “HÀN MẶC” ĐẾN “HÀN MẠC”
TỪ “HÀN MẶC” ĐẾN “HÀN MẠC”
Bút
làm bằng lông cánh chim -Đồ hoạ" ST
Năm 2014, Nhà xuất bản Văn học
tái bản “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân - một cuốn
sách có nhiều sai sót, số lượng tái bản tới 4.000 cuốn. Bất bình với chuyện
này, chúng tôi (bút danh Hoàng Tuấn Công) có bài “Vài lời nhân từ điển của GS.
Nguyễn Lân được NXB Văn học tái bản” đăng trên Blog Tuấn Công Thư Phòng
(2/12/2014). Trong đó, chúng tôi đưa ra một đoạn giả tưởng (về suy nghĩ của soạn
giả từ điển) như sau (xin trích):
“…chữ thần (辰) trong Bắc thần nghĩa là trăng sao,
tôi lại nghĩ đó là chữ thần (神)
trong tinh thần; chữ hàn (翰)
trong “hàn mặc” có nghĩa là cái bút, tôi lại ngỡ đó là chữ hàn (寒) nghĩa là nghèo túng, cùng quẫn
(trong “hàn sĩ”…)”.
Nhân cuốn sách “Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu”
(Hoàng Tuấn Công - NXB Hội Nhà văn, 2017) ra đời, chị Thuý Hằng Nghiêm (một độc
giả trên FB) đã chia sẻ bài “Vài lời nhân từ điển của GS. Nguyễn Lân được NXB
Văn học tái bản” (đã dẫn trên đây), kèm những dòng tâm tư, gửi tới chúng tôi
(Hoàng Tuấn Công), xin trích:
“…mình không thể không chau mày
suy nghĩ khi đọc một số chi tiết trong bài viết của bạn. Cũng với tinh thần phản
biện khoa học nghiêm túc, xung quanh chữ hàn mạc hay hàn mặc, cụ Nguyễn Lân có
thật là đã sai, không đọc được mặt chữ Hán như nội dung bạn viết trong bài
"Vài lời nhân từ điển của Nguyễn Lân nhân được NXB Văn học tái bản"
trong blog Tuấn Công thư phòng hay chính bạn có thể đã mắc phải sai lầm chưa khảo
cứu kỹ tư liệu gốc và đã trách lầm cụ Nguyễn Lân. Bạn kiểm tra lại rồi nếu có
thời gian thì phản hồi lại giúp nhé. Mình chưa có cuốn sách trong tay nên cảm
thấy cũng chưa nên nói thêm gì”.
Chị Thuý Hằng Nghiêm cũng đăng
kèm bài “Bàn về bút hiệu “Hàn Mạc Tử” (Trích từ “Kinh nghiệm về thân phận làm
người trong thơ Hàn Mạc Tử”, Nxb. Southeast Asian Culture and Education
(SEACAEF) 2009), trong đó, tác giả bài viết bàn về mấy chữ “Hàn Mạc Tử”, hay
“Hàn Mặc Tử”.
Thật khó cho chúng tôi, bởi chị
Thuý Hằng Nghiêm đề cao “tư liệu gốc”, "tinh thần phản biện khoa học
nghiêm túc", nhưng lại chưa hề xem trong “Từ điển từ và ngữ Việt
Nam”, GS Nguyễn Lân viết “hàn mặc”, hay “hàn mạc”; cũng chưa đọc trong sách “Từ
điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu” chúng tôi viết ra
sao. Tuy nhiên, xét thấy vấn đề khá thú vị, xung quanh hai chữ “hàn mặc”, hay
“hàn mạc,” chúng tôi đã xin phép chị Thuý Hằng Nghiêm, sẽ trả lời trên mục “Tiếng
Việt tinh tuý” của báo Người Lao Động, mục đích để đông đảo độc giả cùng tham
khảo.
Trong sách “Từ điển từ và ngữ Việt
Nam” (GS Nguyễn Lân – NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh – 2006), mục “hàn mặc”,
GS Nguyễn Lân giải thích như sau:
“hàn mặc • dt. (H. hàn: lạnh,
nghèo khổ, mặc: mực.- Nghĩa đen là bút mực) Văn chương (cũ) <> Quen
nghề hàn mặc, không chú ý đến thể dục”.
Mục
"hàn mặc" trong "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" của GS Nguyễn
Lân -Ảnh: HTC
Chúng tôi cho rằng, mục từ “hàn
mặc”, GS Nguyễn Lân đã giải nghĩa yếu tố Hán Việt sai. Nghĩa là chữ “hàn” trong
“hàn mặc”, là cái bút, chứ không phải “lạnh, nghèo khổ”. Bởi vậy trong
sách “Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu”, chúng tôi
đã viết như sau:
“Ở đây, GS Nguyễn Lân lầm giữa
hai chữ “hàn”. Chữ hàn trong “hàn mặc”, tự hình là 翰 có nhiều nghĩa; một nghĩa
là lông cánh chim (cấu tạo chữ có bộ vũ羽, chỉ nghĩa lông chim). Vì ngày xưa dùng lông cánh
chim làm bút viết chữ, nên “hàn” 翰 còn
có là nghĩa cái bút. “Hàn mặc” 翰墨 là bút và mực, nên nghĩa bóng mới được hiểu
là văn chương (như chính GS Nguyễn Lân đã giảng). Còn chữ hàn với
nghĩa lạnh, nghèo khổ, tự hình là 寒, (có bộ băng [冫] chỉ
nước đóng băng; lạnh; run sợ...,) không liên quan gì đến cấu tạo từ “hàn mặc”
(bút và mực, chỉ văn chương). Nếu GS Nguyễn Lân dùng hàn 寒, nghĩa là “lạnh”; “nghèo khổ” trong
cấu tạo từ “hàn mặc” “寒墨”
thì nghĩa của nó phải hiểu là “mực lạnh”, hoặc “bút mực nghèo khổ”(!), sao có
thể giảng là “văn chương”?”(*)
Bút
giả cổ làm bằng lông chim -Ảnh: ST
Như vậy, không có chuyện “chính
bạn (tức chúng tôi – HTC) có thể đã mắc phải sai lầm chưa khảo cứu kỹ
tư liệu gốc và đã trách lầm cụ Nguyễn Lân” như chị Thuý Hằng Nghiêm nghi ngờ. Bởi
trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”, chính GS Nguyễn Lân đã viết là “hàn mặc”,
chứ không phải “hàn mạc”. Hơn nữa, ở mục từ này, chúng tôi bàn đến chuyện “hàn”,
trong “hàn mặc” (là “hàn” 翰[bút],
hay “hàn” 寒 [lạnh]),
chứ không tranh luận “hàn mặc” hay “ hàn mạc”.
Mặt khác, phải khẳng định rằng,
nếu “hàn mặc” (bút và mực) với nghĩa bóng là “văn chương”, thì chỉ có “hàn mặc” 翰墨, chứ không thể là “hàn mạc” 寒幕 (“rèm lạnh”) trong (một thuyết
về bút danh) Hàn Mạc Tử. Bởi vậy nếu đem kết quả cuộc tranh luận “Hàn Mặc”, hay
“Hàn Mạc” trong bài “Bàn về bút hiệu “Hàn Mạc Tử”, để làm khuôn thước cho từ
“hàn mặc” 翰墨 (nghĩa
[cụ thể] là: “Bút mực, chỉ về việc văn-chương” - Việt Nam tự điển, Hội
khai trí tiến đức), như ý của chị Thuý Hằng Nghiêm, là không thể. Vì một đằng
là nghĩa từ vựng trong tiếng Việt, một đàng là bút danh (có khi có nghĩa, có
khi không có nghĩa, được đặt theo ý chủ quan cá nhân; cách viết chính xác, hay
ý nghĩa của bút danh ấy là gì, cũng chỉ có thể khẳng định một cách chắc chắn,
khi do chính tác giả viết ra, hoặc giải thích ý nghĩa của nó).
Một
đoạn trong bài viết của chị Nghiêm Thuý Hằng gửi đến chúng tôi. -Ảnh: HTC
Bởi vậy, chúng tôi không có ý kiến
gì về bài “Bàn về bút hiệu “Hàn Mạc Tử”, mà chị Thuý Hằng Nghiêm gắn với câu
chuyện chữ nghĩa trên Blog Tuấn Công Thư Phòng, vì cho rằng, nó không liên
quan, hay tác động gì đến hai chữ “hàn mặc” 翰墨 , hay “hàn mặc” 寒墨, mà chúng tôi đang xét (trong từ điển của GS Nguyễn
Lân). Nghĩa là nếu rồi đây, người ta tìm thấy bút tích của Hàn Mặc Tử, trong
đó, chính tay ông viết bút danh mình là “Hàn Mạc Tử” (chứ không phải “Hàn Mặc Tử”),
thì trong tiếng Việt, người ta vẫn viết là “hàn mặc” 翰墨, với nghĩa là văn chương, chứ không
ai đổi thành “hàn mạc” cho đúng với bút danh của nhà thơ.
Cuối cùng, chúng tôi khẳng định ở
mục từ “hàn mặc” GS Nguyễn Lân đã giải nghĩa yếu tố Hán Việt sai: “hàn” 翰, trong “hàn mặc” 翰墨, có nghĩa đen làcái bút, chứ không
phải là “hàn” 寒, với
nghĩa là “lạnh, nghèo khổ”.
HOÀNG TUẦN CÔNG
8/2017
Chú thích:
(*) “Hán điển” giảng hai chữ “hàn
mặc” như sau: “hàn mặc • hàn: lông chim làm bút. Hàn mặc chỉ bút và mực, tỉ dụ
văn chương, thư pháp (nguyên văn: 翰墨hàn
mò 翰,製筆的鳥毛.翰墨指筆墨.比喻文章,書法)。
Nhận xét
Đăng nhận xét