GIẤM và TƯƠNG
GIẤM và TƯƠNG
Câu 1.352 của Truyện
Kiều là: Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.
Đây là lời của Kiều
nói với Thúc Sinh. Giấm chua chỉ sự ghen tuông của phụ nữ; lấy ý từ tích ngật
thố [吃醋] - chữ [吃] cũng đọc là cật
- có nghĩa là uống giấm.
Tương truyền trong một
buổi ngự yến, vua quan đều ngà ngà say. Đường Thái Tông mới ban cho tể tướng
Phòng Huyền Linh hai mỹ nữ. Tan tiệc, tể tướng đưa hai người đẹp về nhà thì
Phòng phu nhân nổi cơn tam bành, không cho hai nàng bước qua cửa. Bị rượt đuổi,
hai nàng bỏ chạy. Chuyện đến tai nhà vua, Thái Tông bèn triệu bà tể tướng vào
cung. Con trời quát: “Ngươi dám chống lại ý ta.
Cho ngươi chọn một
trong hai điều: một là rước hai vị mỹ nữ về nhà đối xử tử tế; hai là uống bình
rượu độc này”. Ai ngờ Phòng phu nhân bưng bình rượu nốc cạn. Xong mới biết đó
là giấm. Đường Thái Tông cảm kích nói: “Phòng phu nhân, chớ oán ta dùng cách
này bức ngươi. Lòng ghen tuông của ngươi lớn lắm. Cảm cái đức nặng tình với chồng
của ngươi, ta thu hồi lệnh (ý là khỏi rước hai mỹ nhân về nhà)”. Từ đó, hai tiếng
ngật thố (uống giấm) được dùng để chỉ cái nết ghen của đàn bà. Đây Kiều ám chỉ
sự ghen tuông của Hoạn Thư.
Lửa nồng do hai chữ hỏa
khanh [火坑], có nghĩa là hố lửa (khanh là cái hang). Hỏa
khanh là ẩn dụ chỉ cảnh ngộ bi thảm cùng cực, ngày xưa dùng để chỉ nhà thổ (cựu
thời dụ chỉ kỹ viện [旧时喻指妓院]). Với
nghĩa này, tiếng Hán có thành ngữ khiêu xuất hỏa khanh [跳出火坑], mà nghĩa đen là nhảy ra khỏi hố lửa, để chỉ việc kỹ nữ hoàn lương.
Ý Kiều nói sự ghen
tuông của vợ cả (giấm chua) còn làm cho mình nhục nhã hơn việc làm gái đến mấy
lần (bằng ba).
Thế là tiếng Hán có
hai tiếng ngật thố để chỉ sự ghen tuông mà Nguyễn Du đã mượn để đưa vào Truyện
Kiều. Tiếng Việt thì sao? Thì có câu ca dao:
Ớt nào mà ớt chẳng cay,
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng.
Ngoài ra, miền Nam còn
có ngữ vị từ đổ ghè tương để chỉ hành động ngật thố của tiếng Hán nhưng rất may
là ở đây chẳng có ai phải húp tương cả. Ghè là một thứ chum nhỏ dùng để đựng chất
lỏng như rượu, nước mắm, tương…, còn tương là danh từ chỉ một thứ gia vị làm bằng
đậu nành lên men.
Nhưng trong đổ ghè
tương thì tương không còn chỉ món gia vị đó vì ở đây đã có một sự đánh tráo
khái niệm: thứ đậu nành lên men kia đã bị thay thế bằng cái chất ớt của những
người phụ nữ hay ghen.
Chẳng là hai tiếng
ghen tuông của miền Bắc thì trước đây trong Nam phát âm thành ghen tương, mà Từ
điển từ ngữ Nam bộ của TS Huỳnh Công Tín giảng là “ghen tuông, có biểu hiện hờn
giận trong tình yêu nam nữ, vì nghi ngờ có sự phản bội”. Chính cái chữ tương
này của từ tổ đẳng lập ghen tương đã thay thế cho chữ tương chỉ gia vị trong ngữ
vị từ đổ ghè tương.
Mà cái sự ghen tương nổi
lên đến mức làm đổ cả cái ghè đựng nó thì đâu có vừa gì. Đây là kiểu chơi chữ
trên cơ sở của hiện tượng đồng âm mà tiếng Anh gọi là pun, tiếng Pháp là
calembour còn tiếng Hán là song quan.
AN CHI
Nhận xét
Đăng nhận xét