NGÔN NGỮ ĐỊA PHƯƠNG KHÔNG PHẢI “GIỌNG QUÊ MÌNH”
NGÔN NGỮ ĐỊA PHƯƠNG
KHÔNG PHẢI “GIỌNG QUÊ MÌNH”
Cán bộ, công chức Hà Nội được khuyên hạn chế nói ngọng, nói lắp, hạn chế
sử dụng ngôn ngữ địa phương…
Đó là một phần nội dung của dự
thảo về quy trình chuẩn mực văn hóa phát ngôn của cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động trong các cơ quan mà Sở Văn hóa - thể thao Hà Nội vừa trình UBND
TP.
Trong những yêu cầu về ngôn ngữ
sử dụng trong phát ngôn cần đảm bảo dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ, yêu cầu "hạn
chế sử dụng ngôn ngữ địa phương" đang gây nhiều tranh cãi.
Nhiều bài báo đã giật tít biểu lộ
sự bất đồng hoặc băn khoăn: "Công chức tổn thương khi bị hạn chế nói giọng
quê mình"; "Hạn chế công chức, cán bộ dùng tiếng địa phương: Có khả
thi?"...
Xem kỹ các ý kiến trên, chúng
tôi nhận thấy một điều là hầu hết các tác giả bài viết đã không hề nhắc lại
nguyên văn từ ngữ trong dự thảo là cụm từ "ngôn ngữ địa phương", mà
tùy ý phản ánh lại bằng nhiều tổ hợp từ ngữ khác: "giọng địa phương"/
"giọng quê mình"/ "tiếng quê mình"/ "tiếng địa
phương"...
Ngôn
ngữ - giọng - tiếng có phải là một?
Thực ra, ở đây đã có một sự ngộ
nhận, nhầm lẫn: các khái niệm ngôn ngữ - giọng - tiếng không hoàn toàn đồng nhất
với nhau.
Giọng là "cách phát âm
riêng của một địa phương". Tiếng cũng được hiểu là "cách phát âm
riêng của một vùng nào đó".
Trong lúc đó khái niệm ngôn ngữ
thì bao quát, rộng lớn hơn nhiều, là "hệ thống những âm, những từ và những
quy tắc kết hợp chúng mà những người trong cùng một cộng đồng dùng làm phương
tiện để giao tiếp với nhau".
Như vậy, rõ ràng từ ngữ được
dùng trong dự thảo của Sở Văn hóa - thể thao Hà Nội nêu trên là chưa chuẩn xác,
dẫn đến hệ lụy là cách hiểu của dư luận cũng bị lệch lạc theo.
Theo suy luận chủ quan của mình,
chúng tôi cho rằng có lẽ yêu cầu của Sở Văn hóa - thể thao Hà Nội là muốn cán bộ,
công chức Hà Nội hạn chế sử dụng "từ ngữ địa phương" chứ không phải hạn
chế tiếng địa phương, giọng địa phương hay ngôn ngữ địa phương.
Từ ngữ là cách nói khái quát về
vốn từ và ngữ của một địa phương hay một dân tộc. Trên đất nước ta hiện tồn tại
nhiều vùng phương ngữ tương ứng với các địa phương trải dài từ Bắc chí
Nam.
Mỗi
vùng phương ngữ ấy có một vốn từ địa phương.
Đối với công chức, viên chức
"tứ xứ" sinh sống, công tác ở Hà Nội, trước yêu cầu hạn chế dùng từ
ngữ địa phương trong giao tiếp công vụ hành chính thiết tưởng cũng là phù hợp.
Vậy nên, nếu thay tổ hợp từ "hạn chế sử dụng ngôn ngữ địa phương" bằng
tổ hợp từ "hạn chế sử dụng từ ngữ địa phương" thì có lẽ dự thảo đã
không vấp phải nhiều ý kiến bất đồng, trái chiều không mong muốn trong mấy ngày
qua.
Nói
ngọng, nói lắp có hạn chế được không?
Trong dự thảo trên, cán bộ, công
chức Hà Nội còn được khuyến nghị "hạn chế nói ngọng, nói lắp".
Thực ra, nếu hiểu một cách thấu
đáo thì khi cán bộ, công chức đã nói ngọng, nói lắp - cố tật của một số người -
khó có thể hạn chế được, trừ khi được can thiệp ở cơ sở y tế.
Ngọng là "không phát âm được
đúng một số âm do có tật hoặc do nói chưa sõi"; nói lắp là "nói nhắc
đi nhắc lại nhiều lần một tiếng, không trơn tru, do có tật".
Trừ trường hợp hầu hết trẻ em
nói ngọng lúc nhỏ, lớn lên sẽ được cải thiện dần theo thời gian, một số người bị
các cố tật ở cơ quan phát âm như: ngắn lưỡi, đầy lưỡi, dính thắng lưỡi, sứt
môi... thì đó là nguyên nhân dẫn đến tật nói ngọng.
Chúng tôi không đồng tình với ý
kiến cho rằng có hai loại "nói ngọng" là "nói ngọng bệnh
lý" như nêu trên và nói ngọng mang tính xã hội do phát âm lệch chuẩn.
Nhìn dưới góc độ bệnh lý thì mới
có khái niệm nói ngọng, nói lắp - thậm chí cả nói nhịu (lịu) nữa - đều chung
nguyên nhân là do có tật.
Quá trình này đòi hỏi phải mất
nhiều thời gian, người tiến hành phải kiên trì, quyết tâm, cố gắng để luyện tập
mới phát âm được đúng hoặc tiếp cận với chuẩn chính âm tiếng Việt.
Trở lại với bản dự thảo nêu
trên, chúng tôi nghĩ cụm từ "hạn chế nói ngọng, nói lắp" là chưa chuẩn
xác, nên thay thế bằng tổ hợp "hạn chế phát âm chệch chuẩn" thì phù hợp
hơn.
Còn tật "nói ngọng, nói lắp,
nói nhịu" thì cần thiết nên đưa vào thành một tiêu chí đáng lưu ý trong
quy chế tuyển dụng công chức, viên chức (ở cương vị việc làm có giao tiếp công
vụ hành chính với người dân).
………………………………
Người làm công việc soạn thảo
văn bản quy phạm cần phải làm chủ vốn từ toàn dân, đồng thời phải cẩn trọng cân
nhắc, lựa chọn từ ngữ chuẩn xác, phù hợp, tổ chức câu đoạn chặt chẽ, diễn đạt
trong sáng, mạch lạc để tránh gây nên những sự nhầm lẫn, ngộ nhận của dư luận.
………………………………
Khi cư dân ở vùng này đến định
cư ở vùng phương ngữ khác, yêu cầu mà họ đặt ra cho chính bản thân mình trước hết
là dần dần hạn chế sử dụng từ ngữ địa phương gốc của mình, dần dần tiếp thu và
sử dụng từ ngữ ở địa phương mới, nhằm mục đích làm cho sự giao tiếp đạt hiệu quả
cao hơn.
……………………………….
Hiện trạng phát âm lẫn lộn giữa các âm đầu, vần, thanh của cư dân các vùng phương ngữ như l/n, ch/tr, s/x, r/d/gi; ươu/ưu/iu, a/e/ô; -t/c, -n/-ng... hoàn toàn không thể gọi là nói ngọng, mà thực chất đó là sự phát âm chệch chuẩn chính âm tiếng Việt, cư dân ở bất kỳ vùng phương ngữ nào trên đất nước ta cũng đều mắc phải, không lỗi này thì lỗi kia, cần phải điều chỉnh, rèn luyện phát âm cho đúng chuẩn, và hoàn toàn có thể làm được.
Hiện trạng phát âm lẫn lộn giữa các âm đầu, vần, thanh của cư dân các vùng phương ngữ như l/n, ch/tr, s/x, r/d/gi; ươu/ưu/iu, a/e/ô; -t/c, -n/-ng... hoàn toàn không thể gọi là nói ngọng, mà thực chất đó là sự phát âm chệch chuẩn chính âm tiếng Việt, cư dân ở bất kỳ vùng phương ngữ nào trên đất nước ta cũng đều mắc phải, không lỗi này thì lỗi kia, cần phải điều chỉnh, rèn luyện phát âm cho đúng chuẩn, và hoàn toàn có thể làm được.
ĐỖ THÀNH DƯƠNG
Nhận xét
Đăng nhận xét