“NGÔN NGỮ @" VÀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT-Ths. Hoàng Anh Tuấn
"NGÔN NGỮ @" VÀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN
SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học công nghệ và Internet, một loại ngôn ngữ mới do giới trẻ sáng tạo đã ra
đời- “ngôn ngữ @”. Ngôn ngữ này, ngày càng phát triển và có những tác động lớn
đến tiếng Việt.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa,
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, Tiếng Việt, trong vai
trò ngôn ngữ văn hóa dân tộc đã có những thay đổi nhanh chóng xét trên nhiều
phương diện. Một trong những thay đổi dễ nhận thấy nhất và luôn dành được sự
quan tâm của xã hội, đó là ngôn ngữ của giới trẻ - những chủ nhân tương lai của
đất nước. Vấn đề càng trở nên “nóng” hơn khi gần đây, trên các phương tiện
thông tin đại chúng, những ý kiến trái chiều về vấn đề này được đưa ra bàn luận
sôi nổi. Có nhiều ý kiến bênh vực cho xu thế phát triển tự nhiên của ngôn ngữ
của giới trẻ, nhưng đa phần đều cho rằng sự phát triển đó là “lệch lạc”, “đáng
báo động”, thậm chí “không thể chấp nhận được” [3] Vậy thực chất của vấn đề là
gì; Nó nghiêm trọng đến mức nào; và cần nhìn nhận ra sao? đang là những câu hỏi
thu hút được sự quan tâm của xã hội, của các nhà nghiên cứu. Trong khuôn khổ,
phạm vi của một bài báo, chúng tôi không có tham vọng trình bày đầy đủ diện mạo
của vấn đề mà chỉ trình bày tóm lược một số nét chính, cũng như những nhận xét
có tính chủ quan của cá nhân về vấn đề này.
Sự phát triển
của khoa học công nghệ đã mang đến cho con người nhiều điều kiện hơn để thay
đổi chính cuộc sống của mình. Ở Việt Nam, trong vòng 10 năm trở lại đây những
tiến bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin, truyền thông đã làm thay đổi mọi
mặt đời sống kinh tế - xã hội, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi lên
miền ngược. Giới trẻ luôn là đối tượng có sự bắt nhịp nhanh nhất với những thay
đổi này. Cùng với tâm lý lứa tuổi, giới trẻ đã tạo cho mình những thay đổi.
Những thay đổi lớn đến mức người ta dễ dàng nhận ra và đặt cho một cái tên
riêng: thế hệ “8X”, “9X”, “những công dân @” hay “tuổi teen”. Trong phạm vi
này, chúng tôi dùng khái niệm giới trẻ để cùng nói về những cách gọi tên ở
trên. Ở đây chúng tôi cũng chia hai phạm vi để trình bày thực trạng ngôn ngữ
của giới trẻ. Đó là ngôn ngữ của giới trẻ trong đời sống thực (thế giới thực)
và ngôn ngữ của giới trẻ trong đời sống ảo(thế giới ảo).
Việc hình thành
các mạng xã hội đã tạo điều kiện cho các bạn trẻ được thỏa sức xây dựng một thế
giới ảo và một cuộc sống ảo cho riêng mình. Trong thế giới đó nhiều chuẩn mực,
lễ nghi trong giao tiếp ngoài đời đã không còn và vì thế những phong cách và cá
tính “chính hiệu” đã ra đời. Lướt qua một vài “chat room” ta bắt gặp những cách
trình bày, biểu cảm khác lạ của ngôn từ. Về cơ bản, chúng tôi tổng hợp được
những xu thế ngôn ngữ “chat” của giới trẻ như sau:
Xu hướng đơn giản hóa. Đây
là khuynh hướng phổ biến nhất. Chỉ cần lướt qua những “chat room”(phòng chat),
forum (diễn đàn) chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những kiểu diễn đạt
như: wá, wyển ( quá, quyển); wen(quen); wên (quên); iu (yêu);
lun (luôn); bùn (buồn); bitk? (biết không?); bít rùi (biết rồi); mí (mấy); dc
(được); ko,k (không); u (bạn, mày), ni (nay), en(em), m (mày), ex (người yêu
cũ), t (tao), hem (không), Bít chít lìn (biết chết liền) v.v.
Việc việc
đơn giản hóa không phải không có nguyên nhân chủ quan khách quan của nó. Đây cũng
không phải xu hướng phát triển mới lạ bây giờ mới xuất hiện mà đó là một thực
tế, một quy luật có tính phổ biến trong sự phát triển của ngôn ngữ- quy luật
tiết kiệm. Đó là quy luật không ai có thể phá vỡ nổi, không có đạo luật
nghiêm khắc nào có thể ngăn chặn, can thiệp được, dù ghét nó người ta cũng vẫn
phải nhượng bộ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế đó
là trong chính tả của Tiếng Việt vẫn còn tồn tại sự bất hợp lý khi sử
dụng nhiều ký hiệu để biểu thị cùng một âm vị: K,Q, C cùng để biểu thị âm vị /
K/; hay Z, d, gi cùng để biểu thị âm /z/.v.v. Ngoài ra, khuynh hướng này còn
bắt nguồn từ việc viết tắt, đây cũng là một trong những cách thức thường gặp
khi giao tiếp bằng văn bản và điều này đã được giới trẻ vận dụng “triệt để” trong
thế giới ảo của mình: “đi” thành “dj”; “không” thành “0”, “ko”, “k”, “kh”,
“kg”, ...; “bây giờ” thành “bi h”; “biết rồi” thành “bit rui”; Chữ “qu” thành
“w”; Chữ ““gì” thành “j”; Chữ “ơ” thành “u”; Chữ “ô” thành “u”; Chữ “ă” thành
“e”; Chữ “ng” ở cuối thì chỉ còn chữ “g”; M = E = em. N = A = anh hay Chèn
tiếng Anh vào như: if = nếu, U = you = bạn, : g9 (Good night – chúc buổi tối
vui vẻ), 2 (hi- chào).v.v
Xu hướng phức tạp hóa. Xu
hướng này tuy không phát triển mạnh mẽ như xu hướng thứ nhất nhưng nó vẫn tồn
tại như một cách để thể hiện sự khác biệt “sành điệu”của giới trẻ: dzui (vui),
thoai (thôi), dzìa(về), roài(rồi), khoai(khó) ><in (xin), lÔ0~i(lỗi),
em4jl (email).v.v. Trong xu hướng phức tạp hóa một trong những nét đặc trưng
cần phải nhấn mạnh đó là cách thể hiện, trình bày nội dung văn bản. Với mong
muốn được thể hiện, khẳng định bản thân (do tâm lý lứa tuổi) xu hướng này vì
thế, càng được phát huy mạnh mẽ. Sự phức tạp trước hết được thể hiện thông qua
hàng loạt các biểu đạt tình cảm đi kèm :( buồn; :(( , T _
T khóc; :) cười; :))))) rất buồn cười; =.= mệt
mỏi; >!< cau có; :x yêu; :* hôn, ^^, vui v.v. Sự phức
tạp còn được thể hiện trong cách trình bày cầu kỳ: “ThiẾu zẮng a e hUmz thỂ
shỐng thÊm 1 fÚt jÂy nÀo nỮa” (Thiếu vắng anh, em không thể sống thêm một phút
giây nào nữa). Xu hướng này còn phát triển đến mức ngay cả những người “trong
cuộc” nhiều khi cũng không thể hiểu hết được những nội dung do những sáng tạo
mang nặng tính cá nhân nhu vậy. Dương Đăng Trúc tác giả phần mềm v2V (phần mềm dịch
ngôn ngữ “chat”) đã phải liên tục cập nhật phần mềm nhưng chính tác giả cũng
thừa nhận không thể theo kịp xu hướng phát triển của loại ngôn ngữ này. Dưới
đây là một đoạn trích từ yahoo [4] được phần mềm v2V dịch lại:
Trên đây chúng
ta đã phần nào khảo sát hoạt động giao tiếp của giới trẻ, trong môi trường mà
chúng ta tạm gọi là thế giới ảo. Vậy những gì đang diễn ra trong thế giới ảo đó
có ảnh hưởng đến đời sống thực tại của giới trẻ hay không? Nếu có, nó đã ảnh
hưởng đến mức độ nào? Trong phạm vi này, chúng tôi chưa có điều kiện để trả lời
đầy đủ, chính xác những câu hỏi trên chỉ xin trích dẫn một số những biểu hiện
cụ thể. Qua đó giúp chúng ta thấy được phần nào diện mạo của vấn đề.
Nổi lên như một cách giao tiếp thời thượng được đông đảo bạn trẻ cổ xúy mà
chúng ta có thể bắt gặp hằng ngày từ nhà ra ngõ, từ công sở đến trường
học: ''Đi gì mà đầu lâu thế?'' - ''Ừ, tại đường Hà Đông quá!'';
''Bắc Cạn đi, các ông ơi!''; ''Cả lớp ơi, Lệ Quyên vào đi chơi thôi!''; ''Em
cà-rốt quá chị ạ, biết tay ấy Lê Văn Sỹ thế thì em phải việc gì phải mở nhiều
bia cho hắn Lục Tốn!''; ''Trần Tiến lên đi, không có anh hùng Núp đâu!'' ''Này,
hết bao nhiêu đấy, để còn Campuchia?''; ''Từ đây đến đấy còn Natasa không
mày?''; ''Thôi, tôi Lương Văn Can ông, đừng đến đấy!''; ''Hôm nay trông hơi nhà
vệ sinh đấy!''; ''Lát nữa có đê tiện đi siêu thị, nhớ mua hộ chai nước mắm
nhé!''. “Bố mua đồ chơi hoành tá tràng (hoành tráng) quá!” ; “Bạn A.
trình còi, đạp xe đạp không bằng con đâu mẹ ạ!”.v.v.
Thậm chí những
sáng tạo này, còn được các phương tiện truyền thông “tiếp sức” khi sáng tạo ra
những kết hợp kiểu biến danh từ thành tính từ chưa có trong từ điển: ''một cảm
giác rất yomost'', ''một phong cách thật xì-tin''. Bên cạnh đó những cách diễn
đạt đã ăn sâu đến mức là câu “cửa miệng” của không nhỏ bộ phận giới trẻ: từ
“vãi” +… kiểu như: mệt vãi chưởng, buồn ngủ vãi, xinh vãi.v.v.
Chữ viết vốn là một công cụ để ghi lại ngôn ngữ, vì thế những biểu hiện lệch
lạc trong ngôn ngữ nói lâu dần sẽ được phản ánh trong ngôn ngữ viết. Với những
thực tế như trên hẳn sẽ không còn là điều ngạc nhiên khi mới đây một học
sinh lớp 10 trong lá đơn xin nghỉ học của mình đã trình bày “rất thật” những
lỗi chính tả khiến nhiều người cho là “ngoài sức tưởng tượng’.
Theo Thầy
Nguyễn Mạnh Hiếu, giảng viên khoa ngữ văn Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, cho biết
trong số gần 1.000 bài thi mà thầy đã chấm (Kỳ thi tuyển sinh đại học 2006) có
hơn 2/3 bài làm chữ viết tệ hơn cả HS tiểu học, phần đông sai chính tả đến
không thể chấp nhận. Tình trạng thí sinh viết văn như nói, viết mà chẳng biết
viết gì vẫn diễn ra phổ biến. Trong lần chấm chung (cả tổ) môn văn, một giảng
viên phải vất vả lắm mới đọc được nội dung, nhưng tìm mỏi mắt vẫn không thấy
một dấu câu nào trong bài làm dài bốn trang của một TS dự thi khối D [6]. Đến
đây, chắc chắn chúng ta không còn khó tưởng tượng bởi điều đó xuất phát từ một
thực tế có căn nguyên rõ ràng và hệ lụy như trên là không thể tránh khỏi.
Trên đây chúng
tôi trình bày tóm lược những biểu hiện cụ thể của ngôn ngữ của giới trẻ ở cả
hai môi trường thực - ảo. Những kết quả khảo sát đã phần nào cho thấy thực
trạng ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay. Bên cạnh những nét độc đáo, những sáng
tạo đáng ghi nhận vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần có sự can thiệp, chấn
chỉnh kịp thời để giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Như trên, chúng
tôi đã chỉ ra những nguyên nhân của vấn đề khi nói về thực trạng của nó. Trong
số đó, chúng ta thấy không chỉ tồn tại những nguyên nhân chủ quan mà còn chứa
đựng những nguyên nhân khách quan; thậm chí có những nguyên nhân thuộc về lịch
sử phát triển của hệ thống chính tả của tiếng Việt. Vì vậy, khi đưa ra bất kỳ
điều chỉnh nào cần phải tính đến xu thế phát triển của ngôn ngữ. Chúng ta cần
ghi nhận những sáng tạo làm giàu, lành mạnh hóa tiếng Việt nhưng cũng cần có
định hướng, biện pháp để đẩy lùi những “sáng tạo” bất hợp lý từ đó làm lành
mạnh hóa hệ thống chỉnh tả, khắc phục những bất hợp lý của hệ thống chữ viết
ghi âm, làm trong sáng và chuẩn hóa tiếng Việt. Ngôn ngữ vốn là một hiện tượng
xã hội vì vậy những điều chỉnh dù nhỏ nhất cũng cần có sự tham gia của xã hội
cộng đồng. Trên cơ sở đó chúng tôi đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần giảm
thiểu những bất hợp lý trong ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay:
Các
bạn trẻ cần tích
cực tham gia trao đổi trong những môi trường tích cực như trường, lớp, đoàn
hội. Trau dồi vốn hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc. Tiếp thu những
yếu tố mới trên cơ sở có xem xét chọn lọc không cổ xúy, chạy theo những xu
hướng mà ngay chính bản thân cũng chưa hiểu chưa rõ.
Các
diễn đàn (forum)
cần xây dựng nội quy, quy chế rõ ràng, có cơ chế quản lý phù hợp. Hướng diễn
đàn đến những nội dung giao tiếp lành mạnh. Cần xây dựng những hạt nhân tiêu
biểu nhằm thu hút thành viên của diễn đàn học hỏi, noi theo những chuẩn mực mà
những thành viên tiêu biểu tạo ra.
Gia
đình cần sự quan tâm chia sẻ từ
các bậc phụ huynh. Nên xem con em mình như những “người bạn” để
hiểu được tâm tư nguyện vọng của giới trẻ hiện nay, và đưa ra những lời
khuyên một cách thiết thực nhất. Giúp các em có nhiều cơ hội được tiếp
xúc giao lưu học hỏi, cũng như trạng bị những hiểu biết văn hóa, ứng xử ngay từ
chính những hoạt động, sinh hoạt trong gia đình.
Thầy
cô - những người có ảnh hưởng
trực tiếp đến các bạn trẻ, những người định hướng, giúp các em hoàn thiện vốn
ngôn ngữ của mình cần phải là những tấm gương về sử dụng ngôn ngữ, kiến
thức ngôn ngữ. Thường xuyên thiết lập các kênh đối thoại để từ đó khích lệ,
nhắc nhở hay chấn chỉnh hoạt động ngôn ngôn ngữ của học sinh.
Nhà
trường cần định hướng cho các em
những giá trị tốt đẹp của tiếng Việt từ đó nâng cáo ý thức giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt. Tạo thêm nhiều cơ hội, cũng như khích lệ tinh thần
học hỏi nói và làm theo lời hay ý đẹp. Bên cạnh đó cũng cần có những biện pháp
để chấn chỉnh những em đi ngược lại xu thế đó.
Cơ
quan chủ quản cần xây
dựng một chương trình học tiếng Việt phù hợp trên tinh thần giảm tải những kiến
thức về ngôn ngữ học tiếng Việt, coi trọng kỹ năng giao tiếp(bao gồm cả nói và
viết tiếng Việt; yếu tố thẩm mĩ, văn hóa trong giao tiếp tiếng Việt…).
Các
cơ quan thông tin truyền thông cần xây
dựng cách nói, viết chuẩn mực góp phần định hướng xã hội. Cần có thái độ cầu
thị kiên quyết chống lại những cách diễn đạt lệch chuẩn, những xu hướng không
phù hợp làm mất đi sự trong sáng và chuẩn hóa của tiếng Việt. Từ đó, giúp giới
trẻ có được định hướng đúng đắn.
Nhìn lại chặng
đường phát triển của Tiếng Việt từ thủa dựng nước, giữ nước đến nay, trải qua
biết bao thăng trầm của lịch sử, với không ít mưu đồ đồng hóa nhưng Tiếng Việt
không những không bị đồng hóa mà còn phát triển ngày càng hoàn thiện đảm đương
tốt vài trò là ngôn ngữ văn hóa dân tộc, chúng ta thấy được sức sống mạnh mẽ
của một ngôn ngữ đã là niềm tự hào của biết bao thế hệ - ngôn ngữ ấy không dễ dàng
để mất đi bản sắc của mình.
Bởi thực tế
ngôn ngữ có quy luật phát triển của riêng nó. Việc tiếp thu những cái mới và
xóa bỏ, loại trừ những yếu tố không phù hợp luôn là hai phép cộng và trừ gắn
liên với quy luật phát triển của mỗi ngôn ngữ. Một cá nhân không thể thay đổi
được ngôn ngữ nhưng cộng đồng, xã hội đó có thể định hướng cho ngôn ngữ đó phát
triển như thế nào. Điều đó, không nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Một
quốc gia có chính sách ngôn ngữ tốt sẽ giúp cho ngôn ngữ của quốc gia đó lớn mạnh[28:2]
và vì vậy, khi nói đến ngôn ngữ của một “tầng” “lớp” nào đó trong xã hội, nó sẽ
không nằm ngoài xu hướng chung của ngôn ngữ xã hội đó. Vì thế, cần có một lỗ
lực chung của cả cộng đồng ngôn ngữ không riêng gì nhà trường, gia đình, hay
bản thân thế hệ trẻ.
Ths. Hoàng Anh Tuấn
--------------------------------------
Tài
liệu tham khảo
1.
Trần Trí Dõi: Chính sách ngôn ngữ văn hoá dân tộc ở Việt Nam, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội 2003.
2.
Cao Xuân Hạo: Tiếng Việt - văn Việt – người Việt, Nxb Trẻ, Tp HCM
2001.
3.
Hồng Hạnh: “Giải mã” ngôn ngữ @ của tuổi teen,
http://dantri.com.vn/c135/s135-458516/giai-ma-ngon-ngu--cua-tuoi-teen.htm
4.
Nguyễn Văn Toàn: Tiếng Việt đang bị bụi bám,
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/71742/tieng-viet-dang-bi----bui-bam-.html
5.
Lá đơn xin phép nghỉ học làm rúng động ngành giáo dục,
http://news.zing.vn/giao-duc/la-don-xin-php-nghi-hoc-lam-rung-dong-nganh-giao-duc/a266949.html
6.
Những bài văn cười ra nước mắt,
http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2005/06/3b9df61a/
Nhận xét
Đăng nhận xét