Chuyển đến nội dung chính
BA LA MẬT
BA LA MẬT
Trong Từ điển Nhật dụng
thường đàm, Phạm Đình Hổ viết: ‘Ba la mật là quả mít’, cách gọi của người Trung Hoa dùng để chỉ một
loại cây ăn quả có tên khoa học Artocarpus heterophyllus, phân bố chủ yếu ở Ấn
Độ và Đông Nam Á.
Hiện nay, có 2 quan điểm
cho rằng ba la mật là cách phiên âm của từ trái mít trong tiếng Việt. Theo nhà
ngữ học Lê Ngọc Trụ, người Trung Quốc đã phiên âm 波羅蜜
(ba la mật) từ chữ “paramita” trong tiếng Phạn, người Việt đã dựa vào cách gọi
này để tạo thành từ ‘trái mít’ trong tiếng Việt.
Chúng tôi không đồng thuận
với quan điểm này, bởi vì, theo bộ Thông Điển của sử gia Đỗ Hựu thì quả mít
trong tiếng Phạn được gọi là पनस (panasa), loại quả có nguồn gốc từ Ấn
Độ du nhập vào Trung Hoa trong triều đại nhà Tùy và nhà Đường, được phiên âm là
bà na sa (婆那娑), đến đời nhà Tống thì đổi thành ba
la mật (波羅蜜).
Có lẽ Lê Ngọc Trụ đã nhầm
ba la mật với ba la mật đa (波羅蜜多) - một từ được
phiên từ chữ paramita (पारमिता) trong Phạn ngữ, có nghĩa là sự hoàn
mỹ, tương ứng với thuật ngữ perfection trong tiếng Anh.
Quan điểm thứ hai cho rằng
vào thời Trung cổ trái mít được viết là blái mít (blái có nghĩa là trái/quả).
Do đó không có gì ngạc nhiên khi người Trung Hoa phiên âm blái mít trong tiếng
Việt thành ba la mật (波羅蜜): ba la = blái; mật = mít. Điều này
có lý, tuy nhiên chúng tôi không nghĩ rằng người Việt không phiên âm ba la mật
thành trái mít, mà chính xác là thành quả mít. Vì sao?
Trong Hán ngữ từ ba (波)
có âm trung cổ là [wa]; còn la (羅) có âm trung cổ
là [la]. Âm [wa] kết hợp với [la] biến thành “quả” là điều dễ hiểu trong cách
phát âm của người Việt; còn mật (蜜) là từ phiên âm
của mít.
Điều này đã được chứng
minh bởi nhà ngôn ngữ học W. Baxter, ông đã phục nguyên âm thượng cổ của mật (蜜)
là [miɪt]; những nhà ngôn ngữ học hàng đầu của Trung Quốc cũng phục dựng âm
trung cổ của từ 蜜 (mật) tương tự như vậy.
Theo nhà ngữ học Chu
Pháp Cao, âm trung cổ (thời nhà Tùy - nhà Đường) của từ 蜜
(mật) là [miɪt], với thanh mẫu là m, vận mẫu là iɪt, cho thấy giống như cách phục
dựng âm của W. Baxter kể trên; còn theo Trần Tân Hùng là âm [mǐet], Vương Lực
là [mǐět], Đổng Đồng Hòa là [m jet].
Riêng về phương ngôn thì
mật (蜜) sẽ được phát âm trong tiếng Khách
Gia là met8, mit8... Như vậy, xét từ âm thượng cổ, trung cổ cho tới phương ngôn
(Khách Gia, Quan Thoại, Quảng Đông) thì âm [miɪt] của từ 蜜
(mật) rất tương đồng với âm mít trong tiếng Việt.
Tóm lại, ba la mật (波羅蜜)
không phải là từ phiên âm của pāramitā trong tiếng Phạn, đây là từ mà người
Trung Hoa đã phiên âm từ ‘quả mít’ trong tiếng Việt. Dĩ nhiên, từ này không
liên quan với từ ‘quả’ (果) (tương ứng với từ ‘trái’) trong tiếng
Việt, bởi vì bản thân ba la mật đã có nghĩa là... quả mít rồi.
VƯƠNG TRUNG HIẾU
Nhận xét
Đăng nhận xét