Từ SINH đến SỐNG
Từ SINH đến SỐNG
Tại thiên 'Hán Việt ngữ nghiên cứu', in trong quyển Hán ngữ sử luận văn
tập của mình (Khoa học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1958, tr.290-406), Vương Lực đã
khẳng định rằng từ sống không có liên quan gì đến sinh [生]
về mặt từ nguyên vì đây là một từ có nguồn gốc Môn-Khmer (xin xem tr.359).
Chúng tôi thì nghĩ ngược lại. Trong một ngôn ngữ Môn-Khmer tiêu biểu là
tiếng Khmer, vẫn còn tồn tại như ngôn ngữ quốc gia của Campuchia ngày nay thì,
tương ứng với sống là từ mà Dictionnaire Vieuxkhmer-français-anglais của
Saveros Pou (L’Harmattan, Avril 2015) ghi là ros và dịch là “vivre” và “to
live” (tr.408). Từ ros vẫn còn “sống” cho đến ngày nay. Từ điển Khơme-Việt của
Hoàng Học (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979) phiên âm nó là rúas (quyển 2,
tr.1320) còn Từ điển Việt-Khmer của Ngô Công Lý (NXB Thông tấn, 2017) thì phiên
là ruás (tr.551). Nếu muốn khẳng định ý kiến của mình thì, không kể phụ âm đầu
R nS, ở đây, ít nhất Vương Lực phải có dăm ba dẫn chứng về tương quan phụ âm cuối
S nNG [ŋ] để khẳng định sống cùng gốc với ros. Khó đấy!
Thực ra, sống là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở chính cái từ ghi bằng
chữ [生], mà âm Hán Việt hiện hành là sinh nhưng âm chính
thống là sanh, cũng đọc sánh, như đã cho trong Quảng vận (1008). Trong quyển vận
thư này thì chẳng những nó thuộc vận bộ canh [庚] mà thiết
âm hạ tự (chữ sau trong phần phiên thiết) của nó cũng chính là chữ canh [庚] (sở canh thiết [所庚切]). Ngoài ra,
ta còn có thể thấy quan hệ ngữ âm ANH n ÔNG giữa sanh/sánh n sống trong một số trường
hợp khác, như: Bộng 1 (với biến thể ngữ âm là bọng) có nghĩa là “chỗ rỗng trong
lòng gỗ, hốc trong thân cây”, như bộng cây, bộng dừa... Đây là một từ Việt gốc
Hán, bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ bánh [窉], thường đọc thành bính, có nghĩa
là “hang, lỗ”. Ngọc thiên, dẫn theo Khang Hy, giảng là “huyệt dã” [穴也].
Bộng 2 có nghĩa là “một thứ nồi to” và bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ [甏],
mà âm Hán Việt là bạnh, có nghĩa là một thứ bình dùng để đựng chất nước, được dịch
sang tiếng Anh là “a squat jar for holding wine, sauces etc”.
Lông trong nhẹ như lông hồng là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở từ ghi
bằng chữ [翎], thường đọc thành linh, nhưng âm gốc lại là
lanh vì thuộc vận bộ thanh [青], mà xanh là một điệp thức.
Lanh/linh có nghĩa là “lông chim”.
Mống (trong mầm mống) và mộng (trong mọc mộng) là hai điệp thức, đều có
nghĩa là “mầm mới nhú”, bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ [萌],
mà âm Hán Việt là manh, có nghĩa là “mầm”.
Mống trong chết không còn một mống bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ [氓] mà âm Hán Việt là manh, có nghĩa là “dân”, là “đứa”.
Mống trong khôn sống mống chết bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ [盲] mà âm Hán Việt là manh, có nghĩa là “tối tăm, mù quáng, không
hiểu biết gì”.
Mồng trong mồng một, mồng hai bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ [孟], mà âm Hán Việt là mạnh, có nghĩa là “đứng đầu, khởi đầu”.
Mạnh đồng nghĩa với sơ [初], như mạnh xuân là sơ xuân, mạnh
thu là sơ thu... Tiếng Việt dùng mồng để chỉ thứ tự của ngày trong một tháng
cũng như tiếng Hán hiện đại dùng sơ theo nghĩa đó: sơ nhất là mồng một, sơ tam
là mồng ba...
Ngồng là “thân non, mảnh và cao, như của cây cải hoặc cây thuốc lá” bắt
nguồn ở từ ghi bằng chữ [梗], ta quen đọc là ngạnh, có
nghĩa là “cành cây, nhánh cây hoặc cuống hoa”.
AN CHI
Nhận xét
Đăng nhận xét